truyện ngắn việt nam sau 1975
"Chấn thương di dời" trong một số truyện ngắn Việt Nam hải ngoại sau 1975. VHSG- Truyện ngắn Việt Nam hải ngoại sau 1975 với những kế thừa và cách 08 Th3. Bài đọc nhiều. Dư âm sâu lắng từ "Hương mùa ký ức" của Hà Vinh Tâm.
Luận văn thạc sỹ văn học. Chuyên ngành Văn học Việt Nam. Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phan Trọng Thưởng. Tác giả: Nguyễn Thị Minh Nguyệt. 125 Trang. Kiểu file: PDF. Ngôn ngữ: Tiếng Việt. Đại học Thái Nguyên 2009. Link Download.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình "Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại" cũng khẳng định sự thành công của truyện ngắn sau 1975: "truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng", "truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành của công cuộc đổi mới" [5, 201- 203].
Kết hợp và thống nhất những mặt đối lập trong bản thân thể loại - giữa tính chất định hình, bất biến với sự linh hoạt, biến đổi; giữa yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại là quy luật vận động, phát triển tất yếu của thể loại truyện ngắn nói chung, của thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau 1975 nói riêng. Nhắn tin cho tác giả
- Truyện ngắn và ký: Văn học từ sau 1975 đến hết thế kỷ XX phải đổi mới vì: - Chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất, đất nước bước vào thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Những thành tựu ban đầu của văn học Việt
materi ips kelas 4 sd semester 1. 1. Đặc trưng thể loại và cảm hứng sáng tác Giá trị của một truyện ngắn chính là sức dung chứa những ý tưởng lớn trong một “kích cỡ nhỏ” của tác phẩm. Một trong những tiền đề quan trọng làm nên thành tựu của văn học Việt Nam đó là hiện thực cách mạng khơi nguồn cho sự sáng tạo và là cảm hứng chủ đạo của nhiều tác phẩm văn chương. Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã phản ánh rất rõ sự thay đổi của hiện thực cuộc sống, rõ nét nhất trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… Nhận thức được điều này, khi tìm hiểu, tiếp cận truyện ngắn Việt Nam từ sau năm 1975, cần chú ý đến cảm hứng sáng tác của từng tác giả nói riêng và cảm hứng của thời đại nói chung. Khơi nguồn cảm hứng từ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là hiện thực cuộc sống được phản ánh qua cái nhìn của người nghệ sĩ. Đằng sau cái bức tranh bình minh trên biển đẹp tuyệt đích, hoàn mĩ ấy là sự thật tồi tệ, phũ phàng – cuộc sống của gia đình hàng chài một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu giải phóng miền Nam nhưng lại không thể nào giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh. Còn trong truyện ngắn Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến là hiện thực cuộc sống thông qua nhân vật cô Hiền. Hình tượng ấy được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Do vậy, cảm hứng chính của nhà văn trong tác phẩm này là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai, như tác giả đã khẳng định “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”. 2. Về không gian, thời gian nghệ thuật * Không gian nghệ thuật Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, văn xuôi thường viết về vấn đề đời tư, thế sự; không gian ở đó là không gian sinh hoạt đời thường. Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 cũng nằm trong dòng chảy chung của văn học nước nhà, thể hiện rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải. Họ viết về cuộc sống thành thị, nông thôn, về số phận con người trong thời đại mới. Vì thế ta thường thấy xuất hiện những không gian trong sinh hoạt đời thường. Đó là nơi để nhân vật hoạt động và tự thể hiện mình trong cuộc sống thường ngày. Cái không gian chật chội của một gia đình có năm đứa con trên một con thuyền lênh đênh trên biển những lúc sóng to gió lớn; cũng có lúc khổ đau đến tận cùng vì người chồng vũ phu “cứ ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”. Thế nhưng người vợ ấy vẫn không chịu bỏ chồng theo đề nghị của người làm công lí vì nhiều lí do mà bà đưa ra hết sức thuyết phục. Nhưng xét đến cùng, trong không gian ấy con người bộc lộ đến cùng bản chất nhiều mặt tốt – xấu, thiện – ác, cao cả – thấp hèn, cách đối nhân xử thế của mình. Qua đó tác giả thể hiện cái nhìn về những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh. * Thời gian nghệ thuật Đọc truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, chúng ta dễ dàng nhận ra thời gian nghệ thuật ở trong tác phẩm là thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó đan quyện vào nhau, gắn kết với nhau để con người thể hiện mình, từ đó làm nên giá trị, ý nghĩa của tác phẩm. Điều đó thể hiện rõ nét qua hình ảnh cô Hiền – một người Hà Nội trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải luôn lặng lẽ giữ lấy nét hào hoa, thanh lịch của văn hoá Hà Nội lại được đặt giữa bối cảnh đã có sự đối lập giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội hôm nay. Có thể nói rằng, các tác giả truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 đã rất thành công trong việc sử dụng thời gian như một phương tiện hữu hiệu để tạo nên hiệu quả nghệ thuật nhất định. Do vậy, tìm hiểu yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm không những là để khám phá tác phẩm mà còn giúp học sinh thấy rõ được tài nghệ của nhà văn; có nhận thức được sự sâu sắc, tinh tế về nội dung của tác phẩm, thì việc tiếp nhận tác phẩm mới trở nên toàn vẹn hơn. 3. Ngôn ngữ, giọng điệu * Ngôn ngữ Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 thể hiện hết sức phong phú, đa dạng vừa gần gũi, bình dị như cuộc sống hàng ngày lại vừa đầy suy tư, sâu lắng. Truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải và Chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn Minh Châu là minh chứng hùng hồn cho đặc điểm đó. Sự lí giải của người đàn bà hàng chài trước tòa án huyện “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi cho con đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!… vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Phải nói rằng, cái ngôn ngữ mà người đàn bà hàng chài đưa ra để giải thích lí do đối với chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng; dù không hoa mĩ, cầu kì, sắc sảo nhưng nó chứa đầy sức thuyết phục. Vì đó là ngôn ngữ của người đàn bà hàng chài, nó bình dị gần với cuộc sống đời thường nhưng mang đậm triết lí sâu sắc. Bởi đó là thực tế cuộc sống mà chỉ có họ mới là người nếm trải, lại thấm thía và thấu hiểu mà không ai có thể làm thay được. * Giọng điệu Sau năm 1975, khi chiến tranh đi qua, nhịp sống đời thường trở lại với tất cả những biểu hiện phong phú của đời sống ích kỉ, vị tha, cao thượng, thấp hèn, phàm tục…Văn xuôi từ chỗ “phản ánh hiện thực” đến chỗ “nghiền ngẫm hiện thực”, đi vào tìm hiểu “toàn bộ chiều sâu của tâm hồn con người”.Vì thế văn chương không thể chỉ có cảm xúc ngợi ca mà còn có đối thoại, đó chính là biểu hiện của mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và độc giả. Thời kì này, nhà văn nhìn cuộc sống qua lăng kính đời tư, thế sự, quan tâm đến con người ở tư cách cá nhân. Từ giọng điệu trang trọng sử thi, sắc bén họ chuyển dần sang giọng điệu tâm tình, gần gũi, giản dị của đời thường. Con người không chỉ là đối tượng để ngợi ca mà còn là tiêu điểm để nhà văn khai thác bề sâu tâm hồn. Nếu như trước 1975, nhà văn ngợi ca những con người, những sự kiện mang tầm vóc sử thi thì sau 1975, tác phẩm truyện ngắn tập trung ngợi ca những con người bình dị, hồn nhiên thể hiện niềm tin của tác giả vào con người và cuộc đời. Việc ngợi ca đức hi sinh cao cả của người phụ nữ làm nghề chài lưới trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho thấy thái độ trân trọng, thấu hiểu và cảm thông của nhà văn đối với nhân vật mình. Hay trong truyện ngắn Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã cho thấy trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử nhân vật cô Hiền vẫn mãi là “hạt bụi vàng” giữa đất kinh kì “chói sáng những ánh vàng”. 4. Cốt truyện, kết cấu của tác phẩm * Cốt truyện Khi tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, để giúp HS nắm được sự phát triển của cốt truyện, GV có thể yêu cầu HS kể lại tác phẩm sau khi đã đọc. Khi kể, các em có thể trình bày một cách chi tiết hoặc sơ lược, nhưng miễn là giới thiệu được câu chuyện xoay quanh phát hiện của nghệ sĩ Phùng và cuộc sống của gia đình hàng chài. Qua đó, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Nắm được cốt truyện tức là giúp HS củng cố được tri thức văn học đồng thời trau dồi năng lực tư duy, ngôn ngữ, phát triển năng khiếu thẩm mĩ cho HS. Điều quan trọng để nắm vững cốt truyện trong tác phẩm là phân tích các chặng đường phát triển chủ yếu của đó sẽ tạo ở các em một ấn tượng hoàn chỉnh về hình tượng tự sự ở trong tác phẩm. Nắm vững cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hướng dẫn HS tìm hiểu những yếu tố về nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ở trường phổ thông. * Kết cấu Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã không chịu đầu hàng trước hiện thực phức tạp, đa chiều của cuộc sống; đã đem lại nhiều kiểu kết cấu hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt. Đó là kiểu kết cấu tâm lí, giúp nhà văn có điều kiện thâm nhập vào thế giới bên trong của tâm hồn con người mà không cần nhiều lời. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa và những sinh hoạt quen thuộc dường như đã trở thành “nếp” trong gia đình cô Hiền trong Một người Hà Nội; tưởng chừng như rất đơn giản nhưng trong đó chất chứa bao nỗi niềm trăn trở của nhà văn về con người và cuộc sống. Dường như tác giả muốn trao quyền kết luận cho người đọc qua việc sử dụng lối kết cấu độc đáo này. Hay ở phần kết tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, hình ảnh người đàn bà “bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc cảm nhận được rằng “người đàn bà” hòa lẫn trong đám đông ấy phải chăng còn bao số phận khác như người đàn bà hàng chài này chăng? Cuộc đời họ rồi sẽ đi về đâu… Kết cấu đó cũng gợi mở nhiều vấn đề, tạo ra nhiều khoảng trống để người đọc cảm nhận và giải mã khoảng trống đó. 5. Nhân vật trung tâm Khi tìm hiểu nhân vật trung tâm trong truyện ngắn, cần dựa vào các yếu tố lai lịch, ngoại hình, gốc gác, ngôn ngữ, nội tâm, cách ứng xử, cử chỉ, hành động của nhân vật. Phân tích, tìm hiểu nhân vật cô Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội đã cho thấy Điều mà tác giả quan tâm và tập trung thể hiện ở nhân vật cô Hiền chính là vẻ đẹp của một lối sống, nhân cách người Hà Nội, “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”, như chính lời của người kể chuyện nói về nhân vật. Truyện đưa ra nhiều chi tiết sự việc về nhân vật cô Hiền, nhưng chung quy lại vẫn là ở hai mối quan hệ chính gia đình và xã hội, với cách mạng. Với tư cách là người mẹ, người chủ gia đình, hay một công dân, ở nhân vật cô Hiền đều toát lên một vẻ đẹp của nhân cách, của lối sống văn hoá, của một bản lĩnh. Đó là con người luôn giữ vững những quan niệm và cách sống của mình, không bị biến suy theo những đổi thay của thời cuộc, lại tỉnh táo sáng suốt, không xu thời nhưng cũng không để bị rơi vào tình thế của kẻ lạc thời. Sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, giàu có; thời trẻ cô Hiền được cha mẹ cho phép mở một xa lông văn chương, nơi gặp gỡ của nhiều văn nhân nghệ sĩ có tiếng của đất Hà thành. Như thế, cô thuộc thế hệ tân tiến trong lớp thanh niên thành thị thời trước cách mạng. Nhưng việc cô lấy chồng lại chọn “một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Điều đó thể hiện rõ sự lựa chọn tỉnh táo và những quan niệm nghiêm túc của cô về hôn nhân và gia đình. Nhưng việc dạy dỗ con cái của cô là nhằm hướng tới cái quan trọng nhất trong nhân cách một con người… 6. Tình huống truyện Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuộc loại tình huống cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Điều đó thể hiện rõ nét thông qua quá trình nhận thức khá quanh co và được “vỡ ra” từ hiện thực cuộc sống của nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu. Để có được một tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng tới một vùng biển vốn là chiến trường cũ của anh. Và mất mấy ngày “săn tìm”, anh mới “chộp” được một tấm hình như ý. Đó là một sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ không phải khi nào cũng có được. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng trở nên bối rối và “trong tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy mình vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng bước ra từ chiếc thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ đã đánh lại cha. Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ, như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, đó mới là phần khởi đầu của truyện cũng như của tình huống. Cuộc tiếp xúc giữa chánh án Đẩu và người đàn bà hàng chài đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Theo lời mời của chánh án Đẩu – người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Nhưng trước toà án, chị ta đã từ chối quyết liệt với những lí do không khỏi Phùng và Đẩu “đau đầu” suy nghĩ Đó là vì gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng của những đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động, phong ba. Hơn thế nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì chúng nhiều hơn là cho bản thân chị. Và quan trọng hơn là trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng, con cái sống hoà thuận, vui vẻ… Như vậy, tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa giống như một vòng tròn đồng tâm mà người nhiếp ảnh Phùng cũng như chánh án Đẩu đều phải trải qua một quá trình nhận thức để đạt đến trạng thái “đốn ngộ” cho tâm hồn. Nguồn Dẫn theo bài viết HƯỚNG DẪN HỌC SINH VẬN DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 của Chu Đình Kiên, Trần Thị Hương
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Phương Thảo TRUYỆN NGĂN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 VIẾT VỀ CHIẾN TRANH Chuyên ngành Lí luận văn học Mã số 62 22 01 20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 1 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học Trần Khánh Thành Phản biện 1 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Phản biện 2 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Phản biện 3 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp ….. họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . Vào hồi giờ ngày tháng năm 20... Có thể tìm hiểu luận án tại - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội 2 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN [1]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2013, “Diện mạo truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh của Nguyễn Minh Châu trong hai thời kỳ sáng tác”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, số 3 + 4, tr. 52 - 53 và 72. [2]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2014, “Truyện ngắn về chiến tranh qua các cuộc thi trên Văn nghệ Quân đội đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 810 và 81, tr. 162 – 167. [3]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Cảm hứng nhân bản trong truyện ngắn Việt Nam viết về chiến tranh sau 1975”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 839, tr. 91 - 96. [4]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Yếu tố giấc mơ và kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam đương đại viết về chiến tranh”, Tạp chí Lí luận Phê bình Văn học, nghệ thuật, số 44, tr. 60 – 64. [5]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Nhân vật người lính trong truyện ngắn Việt Nam đương đại”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 382, tr. 82 – 85. 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, những công trình nghiên cứu về đề tài truyện ngắn chiến tranh chưa nhiều. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn hoặc một mục nhỏ của công trình, các vấn đề được đặt ra rải rác,diện khảo sát thường hẹp về số lượng tác phẩm. Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975 dưới một số góc độ nội dung và nghệ thuật, chúng tôi hi vọng sẽ đem lại cái nhìn tương đối toàn diện về mảng truyện ngắn này với nhiều giá trị đặc sắc còn tiềm ẩn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở khảo sát nghiên cứu truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranhtrong sự so sánh đồng đại với truyện ngắn nói chung, với tiểu thuyết về chiến tranh…và sự so sánh lịch đại truyện ngắn chiến tranh giai đoạn trước 1975, luận án muốn tìm ra những đặc điểm, yếu tố kế thừa và cách tân của truyện ngắn khi viết về đề tài chiến tranh. Nhiệm vụ Qua việc tổng hợp tư liệu, luận án sẽ làm sáng rõ những vấn đề lí luận cơ bản về sự thay đổi tư duy nghệ thuật, một số yếu tố thi pháp đặc trưng thể loại truyện ngắn và phân tích cụ thể trong sáng tác về chiến tranh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng Một số phương diện quan trọng về nội dung, nghệ thuật, đặc điểm của truyện ngắn viết về chiến tranh nhìn từ thời bình. Sự thay đổi cách nhìn hiện thực, thế giới nhân vật đa chiều, những đặc sắc trong phương thức biểu hiện của truyện ngắn chiến tranh đương đại. 4 Phạm vi Luận án nghiên cứu những tác phẩm tiêu biểu trong các tuyển tập truyện ngắn hay về chiến tranh, truyện ngắn hay và đoạt giải Tạp chí Văn nghệ quân đội được tuyển chọn từ 1975 đến năm 2016. Bên cạnh đó là truyện ngắn về chiến tranh của các tác giả tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu,Bảo Ninh, Sương Nguyệt Minh, Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Võ Thị Hảo, Trần Thanh Hà, Vũ Thị Hồng...Đồng thời, luận án cũng đề cập đến những truyện ngắn gần đây về chiến tranh trong phạm vi mà tác giả cập nhật được. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện, luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau phương pháp lịch sử- xã hội, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp loại hình, phương pháp nghiên cứu liên ngành 5. Đóng góp mới của luận án Qua việc tìm hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 về chiến tranh, luận án bổ sung một cách nhìn truyện ngắn đương đại. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn khảo sát tác phẩm, luận án đánh giá tác động của sự thay đổi bối cảnh hiện thực và tư tưởng, quan niệm nghệ thuật đến truyện ngắn về chiến tranh. Luận án chỉ ra những nét đặc trưng, kế thừa và cách tân trên một số phương diện nghệ thuật cơ bản của truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được tổ chức thành bốn chương như sau Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới 5 Chương 3. Các loại hình nhân vật chủ yếu Chương 4. Những phương thức nghệ thuật đặc sắc 6 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đặc trưng thể loại truyện ngắn Khái niệm Một số đặc trưng của truyện ngắn hiện đại Phương thức chiếm lĩnh hiện thực của truyện ngắn không phải là hướng đến toàn bộ sự đầy đặn toàn vẹn như tiểu thuyết mà chỉ tập trung đặc tả một hiện tượng, một nét bản chất của con người, một khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống. Truyện ngắn có đặc trưng riêng về dung lượng, kết cấu, cốt truyện, tình huống, chi tiết... Văn học chiến tranh- từ những góc nhìn Từ góc nhìn của một số tác giả nước ngoài và nhìn về phía văn học Mỹ Với một đề tài mang tính nhân loại, văn học về chiến tranh nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nước ngoài giới thiệu ở Việt Nam. Qua đó có thể thấy nhiều vấn đề, quan điểm tương đồng và có ý nghĩa như bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là khẳng định vị trí, sức hấp dẫn của đề tài chiến tranh và đặt vấn đề phải viết như thế nào để nói lên được tầm vóc của cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, tâm thế của con người trong và sau chiến tranh. Một số bài viết khác đề cập đến những sáng tác của những tác giả Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam cho rằng từ thập kỷ 1970 đến nay cuộc chiến tranh trở thành đề tài lôi cuốn nhiều người cầm bút ở Mỹ trên nhiều thể loại. Từ những ý kiến phê bình trong nước Dựa trên nhiều khuynh hướng lí thuyết với các tiêu chuẩn giá trị, sự đánh giá khác nhau, một hướng nghiên cứu phổ biến là đặt truyện ngắn về đề tài chiến tranh trong văn xuôi chiến tranh. Có thể thấy 7 mảng văn học viết về đề tài chiến tranh được nghiên cứu phê bình trên nhiều bình diện, tập trung vào vị trí của đề tài, lực lượng viết, sự thay đổi cách tiếp cận đề tài cho phù hợp với cuộc sống đương đại và cái nhìn dân chủ sau chiến tranh. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn sau năm 1975 viết về chiến tranh Những nghiên cứu về truyện ngắn sau 1975 nói chung Bên cạnh những bài viết khái quát, một số tác giả đi sâu vào vấn đề cụ thể như cảm hứng nữ quyền, truyện ngắn lịch sử, văn xuôi mạng…Những bài viết này thường xuất phát từ một vài phương diện để cắt nghĩa, giải mã những độc đáo trong sáng tác của một tác giả hay một tác phẩm, tập truyện nào số tác giả chọn cách tiếp cận truyện ngắn đương đại từ áp dụng các lí thuyết phê bình phương tây.. Các bài viết chủ yếu bàn về một số khía cạnh của truyện ngắn trong sự vận động của thể loại. Những luận án nghiên cứu truyện ngắn thường chọn một số vấn đề cơ bản để làm rõ, đó cũng là sự gợi mở cho các công trình nghiên cứu khác. Những đổi mới của truyện ngắn từ sauu 1975 về chiến tranh Một số nhà nghiên cứu chỉ ra những đổi mới về tư duy nghệ thuật biểu hiện qua đề tài, xây dựng nhân vật... Do khuôn khổ của bài viết nên các tác giả thường tập trung giải quyết một cách thấu đáo một số khía cạnh đổi mới của truyện ngắn chiến tranh. Đó cũng là vấn đề để ngỏ. Bên cạnh những bài phê bình đề cập trực tiếp đến truyện ngắn chiến tranh, cũng có một số nhà phê bình bàn về những tác phẩm, nhà văn cụ thể viết về đề tài chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Từ Nguyên Tĩnh, Xuân Thiều...Cách nhìn này đem đến sự quan sát nhìn cụ thể về những tác giả, tác phẩm xuất hiện trên văn đàn, không phải cái nhìn khái quát về truyện ngắn chiến tranh. Đó cũng là gợi ý cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này. Ngoài ra, bàn về văn xuôi nói 8 chung, truyện ngắn nói riêng về đề tài chiến tranh còn xuất hiện rải rác trong một số bài báo, tạp chí, luận văn khác nữa. Hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về truyện ngắn từ sau 1975 đến nay về chiến tranh . Tiểu kết Đã có nhiều công trình, bài viết trong hơn bốn mươi năm qua bàn về lí luận truyện ngắn, văn xuôi, và truyện ngắn chiến tranh trong xu thế đổi mới chung của nền văn học. Các bài viết chủ yếu bàn đến một vài khía cạnh hoặc điểm qua vài nét về đặc điểm của truyện ngắn sau 1975 về chiến là một vấn đề còn để ngỏ, gợi mở cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh. 9 CHƯƠNG 2 HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VỚI NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật và cảm hứng sáng tác Sau 1975, cùng với sự đổi mới tư duy, quan niệm về hiện thực cũng thay đổi. Hiện thực chiến tranh và hậu quả của nó được nhìn nhận một cách toàn diện sâu sắc. Quan niệm nghệ thuật về con người ngày càng toàn diện, dần chuyển từ con người công dân, chính trị sang con người cá thể được khai thác ở nhiều bình hứng lãng mạn dần được thay thế bằng cảm hứng nhân bản, nhân văn. Chiều sâu bản thể và tâm hồn con người được khai thác với trí tuệ, tư tưởng, tình cảm, bản năng, ý thức và vô thức, tâm linh... Điểm nổi bật trong truyện ngắn chiến tranh thời gian này là khắc hoạ hình tượng người lính cả từ hai chiến tuyến. Từ khuynh hướng sử thi chuyển sang khuynh hướng thế sự, đời tư Giai đoạn kháng chiến 1945-1975 ở Việt Nam là thời điểm đặc biệt sản sinh và nuôi dưỡng nền văn học sử thi. Thành công của khuynh hướng sáng tác này là đã kết tinh thành những truyện ngắn làm nổi bật chân dung những anh hùng, người con ưu tú và cộng đồng với lý tưởng chung. Sau năm 1975, nhà văn không chỉ hướng đến những vấn đề lịch sử chính trị mà còn khai phá những mảng hiện thực mới đặt ra của cuộc sống thời bình. Văn học đương đại Việt Nam về chiến tranh thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư - thế sự, hướng đến cuộc sống đa trị và qua đó thể hiện cảm quan của nhà văn. Khám phá hiện thực, con người trong tính đa dạng, đa diện Biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng 10 Với tâm thế của người viết đương thời, biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tiếp tục được phản ánh. Cùng với đó, sự xuất hiện của nhiều truyện ngắn viết về cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, của quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cămpuchia và biên giới phía Bắc những năm sau 1975 là sự bổ sung làm nới rộng biên độ hiện thực. Hiện thực chiến tranh được biểu hiện không chỉ là những thời điểm khốc liệt của các trận chiến- nơi bộc lộ cái cao cả và cái thấp hèn mà còn là hiện thực số phận con người cụ thể trong và sau chiến tranh. Khai thác đời sống bên trong của con người Trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh, nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực, con người thực với những điều hiện hữu, dễ nắm bắt, định danh mà còn khai thác thế giới vô thức giấc mơ, đan cài vào hiện thực là thế giới của những điều kỳ ảo và tâm linh để kiến tạo những ngả đường khác nhau đến với đề tài này. Chiến tranh không chỉ giản đơn là dòng hồi ức hay khoảnh khắc khó quên nào đó mà là những câu chuyện trong thế giới nhiều chiều, khó đoán biết. Nhiều truyện ngắn thấp thoáng thế giới ảo như Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Họ đã trở thành đàn ông Phạm Ngọc Tiến, Tiếng vạc sành Phạm Trung Khâu... Truyện ngắn chiến tranh khai thác con người với bản năng sống, trạng thái vô thức và tâm linh . Có thể thấy tinh thần đó trong nhiều truyện Giấc mơ kí ức Phan Đức Nam, Rửa tay gác kiếm Bảo Ninh, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Những giấc mơ có thực Vũ Thị Hồng... Với đề tài chiến tranh, nhiều nhà văn hướng đến thế giới tâm linh để biểu đạt con người toàn diện hơn. Có thể nhận thấy điều đó trong nhiều truyện ngắn như Chuyến xe đêm Ma Văn Kháng, Tiếng chuông chiều Lê Hoài Lương, Bến trần gian Lưu Sơn Minh... Tuy nhiên, đó không phải là con đường duy nhất để khai thác đề tài chiến tranh. Việc miêu tả thế giới với những điều kỳ ảo, vô thức, tâm linh cũng cần đến một 11 nhãn quan tỉnh táo, chừng mực để tránh sa đà, dẫn tác phẩm tới “ly kỳ rùng rợn” hoặc cổ vũ mê tín dị đoan. Tiểu kết Từ sau giải phóng, truyện ngắn chiến tranh đã có sự bứt phá, thay đổi để tìm đến những hướng tiếp cận mới. Sự thay đổi hệ hình tư duy từ sử thi sang tiểu thuyết là bước ngoặt chi phối đời sống văn chương nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Từ đó thay đổi phương hướng sáng tạo, xây dựng nhân vật và tổ chức các thành tố của truyện. Chính vì vậy, trong hai thời kỳ lịch sử khác nhau, truyện ngắn đề tài chiến tranh mang diện mạo riêng. Điều này phản ánh tâm thức sáng tạo và tiếp nhận trong bối cảnh hiện thực cụ thể, phù hợp với lôgic vận động của đời sống văn học. Nhà văn đương đại đã chủ động tìm những ngả đường khác nhau mở rộng đường biên phản ánh hiện thực. Đề tài chiến tranh khi nhìn từ thời bình không còn giới hạn trong phạm vi hẹp cả về tư tưởng và trường phản ánh. Vì vậy, từ sau 1986, đặc biệt là những năm 90, truyện ngắn chiến tranh “nở rộ” với sự phong phú về số lượng, đa dạng về phong cách, mới mẻ và khách quan trong xử lý chất liệu chiến tranh. Hiện thực và con người dần hiện lên với bề rộng và chiều sâu, khác với tác phẩm giai đoạn trước. 12 CHƯƠNG 3 CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT CHỦ YẾU Loại hình học và loại hình nhân vật văn học Loại hình học Phương pháp tiếp cận vấn đề văn học theo loại hình giúp khu biệt một cách tương đối các hiện tượng trong mối quan hệ với hệ thống, tổng thể, từ đó đưa ra những nhận định theo nhóm có chung đặc điểm. Với vấn đề nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh, chúng tôi chọn hướng tiếp cận này như một cách thức để đưa ra những kiến giải về các kiểu nhân vật trong truyện ngắn đương đại về chiến tranh. Cách phân loại nhân vật theo loại hình Tuỳ theo tiêu chí phân loại khác nhau mà có thể tìm thấy những loại nhân vật có sự tương đồng về một mặt nào đó. Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, thế giới nhân vật rất phong phú đa dạng. Chúng tôi chọn cách phân loại nhân vật dựa trên tiêu chí vai trò của nhân vật trong tác phẩm kết hợp với tiêu chí giới tính, lứa tuổi, mức độ ảnh hưởng của chiến tranh đối với họ. Từ đó luận án tập trung khảo sát một số kiểu loại nhân vật chủ yếu được khắc hoạ đậm nét trong truyện ngắn chiến tranh đương đại. Các loại hình nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh Thế giới nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, viết về chiến tranh khi nó đã kết thúc, có nhiều nhân vật ở mọi lứa tuổi, giới tính là những người của cuộc sống hoà bình, thường ngày. Họ hầu như không tham gia chiến tranh mà xuất hiện trong truyện với tư cách người kể chuyện, những nhân vật phụ làm bối cảnh cho tuyến truyện chính. 13 Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi chọn và đi sâu khảo sát hai kiểu nhân vật tiểu biểu là người lính và người phụ nữ. Họ thường là nhân vật chính, nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Nhân vật người lính Nhân vật đa diện Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, người lính được khắc hoạ đa chiều hơn với cá tính riêng, số phận đời tư, nhiều gương mặt khác nhau bên trong một con người. Đó là Trí Hai người trở lại trung đoàn – Thái Bá Lợi , vị tướng Ai biết mộ liệt sĩ ở đâu? - Văn Chinh, Lâm Truyền thuyết về Quán Tiên - Xuân Thiều... Không còn là sản phẩm của tinh thần lý tưởng hoá cao độ, họ hiện lên với cả sai lầm, thiên kiến cá nhân, khoảnh khắc hèn nhát, bản năng lấn át lí trí... Việc nhà văn “đặc tả” con người ở nhiều chiều kích một cách khách quan dẫn đến sự xuất hiện của nhân vật “lưỡng diện”, “đa trị” trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Nhân vật tự ý thức - Ý thức về hoàn cảnh của mình Người lính được xây dựng trong tâm thế tự ý thức về cảnh ngộ của mình để sống và vượt lên nghịch cảnh sau chiến tranh. Dù gặp những mất mát, thiệt thòi nhưng hình tượng người lính vẫn đem đến cho người đọc sự khâm phục, cảm động khi họ biết vượt qua những bi kịch cá nhân để khẳng định phẩm chất- lí tưởng sống của mình. Đó là Lực Cỏ lau- Nguyễn Minh Châu, “anh” Đêm nguyệt thực- Trung Trung Đỉnh, Thao Miền cỏ hoang- Trần Thanh Hà... Kiểu nhân vật này chiếm số lượng lớn, là sản phẩm tất yếu của sự đổi mới tư duy nghệ thuật. - Ý thức về sai lầm của mình để tự thú, sám hối 14 Tự ý thức còn là trạng thái tinh thần để con người chiêm nghiệm, suy ngẫm lại hành động của mình. Phần lớn họ là người lính bên kia chiến tuyến chúng tôi trình bày ở phần sau. Bên cạnh đó, có cả nhân vật tự thú là người lính cách mạng như “người khách” Hồn cát - Nguyễn Hiê êp, Lực Cỏ lau và hoạ sĩ Bức tranh của Nguyễn Minh Châu. Xây dựng nhân vật này thể hiện sự nhạy cảm của nhà văn về trạng thái tâm lí đầy ám ảnh của con người sau chiến tranh, dù đó là ai, đứng ở vị trí nào. Nhân vật cô đơn Bên cạnh và đối lập với kiểu nhân vật vượt lên trên nghịch cảnh là những nhân vật không dung hoà được với cuộc sống sau chiến tranh. Mang theo những điều còn mất từ chiến tranh, nhiều người rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lõng giữa cộng đồngvà thời cuộc. Đó là tướng Thuấn Tướng về hưu- Nguyễn Huy Thiệp, Châu Bóng ma đói quê hương- Vũ Bão, Mộc Trại “Bảy chú lùn”- Bảo Ninh.. Môtip người lính cô đơn đã trở thành mẫu hình phổ biến trong văn học sau 1975, làm phong phú bức tranh chân dung người lính. Họ là sự phản chiếu đời sống sau chiến tranh. Nhân vật tha hoá Cùng với đổi mới tư duy và nhu cầu “nói thật”, hình tượng con người bị tha hóa đã xuất hiện nhiều trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Bởi chiến tranh không chỉ là nơi khẳng định của những anh hùng mà còn là nơi phân biệt những kẻ hèn nhát, phản bội, nhỏ nhen. Sự biến chất, tha hoá này là vấn đề được khai thác trong cả tiểu thuyết và truyện ngắn như một vấn nạn cần phê phán và cảnh giác. Đó là Sức Anh Sức- Khuất Quang Thụy, Quang Cơn giông-Nguyễn Minh Châu, Lê Mãnh Nanh sấu- Sương Nguyệt Minh... 15 Người anh hùng, người lính dưới góc nhìn của nhà văn trở nên chân thực, sinh động hơn, bởi nó gần với đặc tính cố hữu của con người, không phải là một chiều thánh thiện. Nhân vật người lính bên kia chiến tuyến Cùng với sự thay đổi quan niệm về đề tài chiến tranh, về con người, trong văn học đã có cái nhìn khách quan hơn dành cho những người phía “đối phương”. Họ cũng chỉ là công cụ của kẻ xâm lược trong cuộc chiến, có thể bị hủy diệt bất cứ lúc nào vì toan tính của nhà cầm quyền, nhiều người bị xô đẩy vào cuộc chiến và rơi vào bi kịch. Đó là Phúc Thời tiết của ký ức- Bảo Ninh, John Smith Chú lùn thứ bảy- Lưu Sơn Minh, Huỳnh và Phấn Đất ấm- Đỗ Văn Nhâm...Nhân vật người lính “bên kia” còn được phác hoạ với vẻ đẹp nhân bản. Dù phải làm nhiệm vụ trong hàng ngũ địch nhưng họ cũng có cảm xúc, tình cảm, lòng trắc ẩn... như mọi con người bình thường. Đó là Benla Cây số 42- Dũng Hà, Xơn Ông Ba Rạch Đùng- Dương Đức Khánh... Hệ thống nhân vật này phản chiếu tư duy “nhận thức lại lịch sử” một cách khách quan, bao dung, nhân văn khi tiếp cận đề tài chiến tranh. Vì vậy, họ đã “điền vào” vào khoảng trống mà giai đoạn trước truyện ngắn còn để ngỏ. Nhân vật người phụ nữ Nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi Môtip nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi xuất hiện khá nhiều trong truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975. Điểm chung của họ là chờ đợi thời gian quá dài, thậm chí hơn nửa đời người, họ vẫn luôn giữ mối chung tình với người đi xa dù có thể còn chưa một lời thề nguyền hẹn ước. Đó là Ân và Mật trong Hai người đàn bà xóm trại Nguyễn Quang Thiều, cô gái ở làng chiến khu Giếng trong – Lê Tuấn Hiển, Hai Mật Trên mái nhà người phụ nữ - Dạ Ngân.. Họ tạo thành hệ thống nhân vật “ vọng phu” nhiều dáng vẻ, điển hình 16 cho nhân cách, phẩm chất, cách ứng phó với cuộc sống sau chiến tranh của không ít phụ nữ Việt Nam. Nhân vật phụ nữ với bi kịch chiến tranh Truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh tiếp cận con người ở số phận cá nhân, người phụ nữ mang bi kịch mất con, trở thành người đàn bà goá bụa hoặc chịu thương tật di chứng chiến tranh,không được làm mẹ... Đó là người bà Nắng chiều- Thụy Anh, bà cụ Lăng Bến trần gian- Lưu Sơn Minh , mẹ của tôi Chuyện xưa kết đi, được chưa?- Bảo Ninh. Họ được tô đậm ở đức tính hi sinh, tình cảm sâu nặng, nghị lực kiên cường và cả sự yếu đuối vốn dĩ của giới nữ. Kiểu nhân vật này gắn với cảm hứng bi kịch, tinh thần dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, truyện ngắn tiếp cận con người cả ở góc độ mất mát, bất hạnh trong cuộc sống do tác động của chiến tranh. Tuổi trẻ, nhan sắc, sức sống đã hao mòn bởi thời gian và chiến tranh cùng với nếp sống tình cảm, sự chi phối của dư luận cộng đồng khiến họ gặp nhiều trắc trở tình duyên và nhiều người thậm chí sống đơn độc phần đời còn lại. Con người mang theo khuyết thiếu, vết thương tâm hồn, tình cảm là một vấn đề lớn sau chiến tranh. Nhân vật phụ nữ tha hoá Trong cách tiếp cận hiện thực và con người đa diện, người phụ nữ còn được khắc hoạ khi bị chiến tranh kéo dài đẩy vào tình cảnh éo le, trở thành người bội bạc, chung chạ với nhiều người. Kiểu nhân vật này không có trong văn học giai đoạn trước. Tuy nhiên, cái nhìn trong truyện ngắn thời kỳ này với họ thường là bao dung bởi họ cũng là nạn nhân của chiến tranh, nhiều khi do hoàn cảnh, họ cũng có những khát khao rất đỗi thường tình của con người. Đó là nhân vật vợ Quang Rửa tay gác kiếm- Bảo Ninh, Diệu Nương Gió dại- Bảo Ninh, Diễm Thuý Đỉnh khói- Nguyễn Thị Kim Hòa, Thoải Thím Thoải- Hạnh Lê... 17 Soi chiếu qua thân phận người phụ nữ, truyện ngắn sau 1975 hướng đến tận những góc khuất thầm kín, khát vọng bản năng, những vấp ngã đời thường. Bên cạnh đó, họ vẫn toát lên đặc trưng nếp nghĩ, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Tiểu kết Nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh đương đại được thêm vào những chân dung, kiểu loại gắn với cái nhìn từ hoà bình. Nhân vật người lính thời kỳ này đã được tập trung thể hiện với tinh thần khách quan, nhân bản. Viết về sự đa dạng trong tính cách, những chấn thương, bi kịch là kết quả của lối tư duy nghệ thuật mới. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận kiểu nhân vật người lính anh hùng của giai đoạn trước mà là sự bổ sung, làm đầy đủ hơn loại nhân vật này. Bên cạnh đó, nhân vật phụ nữ là đối tượng được đặc biệt quan tâm trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Nhìn từ hoà bình, chân dung họ hiện lên với những tổn thương đầy khắc khoải và cả những nhược điểm mang tính bảo thủ của người phụ nữ trong định kiến xã hội Việt Nam. Họ đáng được trân trọng, cảm thông bởi chiến tranh đi qua để lại những người phụ nữ với bi kịch lớn nhất là không có một gia đình trọn vẹn. 18 CHƯƠNG 4 NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC Tổ chức cốt truyện Khái niệm cốt truyện và vai trò của cốt truyện trong truyện ngắn Một số loại hình cốt truyện tiêu biểu Cốt truyện sự kiện - hành động Loại cốt truyện này chú trọng yếu tố “có chuyện”,biến cố, sự kiện, hành động của nhân vật phát triển tạo nên sự vận động của cốt truyện. Tuy nhiên, trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, dù truyện triển khai trên sự kiện, hành động là chủ yếu nhưng vẫn đan xen trong đó những chi tiết, tình tiết mới lạ, bất ngờ, biến cố liên tục tạo độ căng cho truyện, trình tự các sự kiện có thể bị đảo lộn chứ không nhất thiết trình bày theo trật tự trước sau như trong truyện truyền thống. Đồng thời, nhà văn sử dụng các yếu tố kỳ ảo, giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu hiện cảm nhận của con người hiện đại về đời sống trong và sau chiến tranh. Nhiều truyện có kiểu cốt truyện này như Kẻ sát nhân lương thiệnLại Văn Long Còn, Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Hai mươi năm sau Hồ Phương. Cốt truyện tâm lý Sau năm 1975, kiểu cốt truyện này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện ngắn, hướng đến thế giới hiện thực khó định hình và nắm bắt trong tâm hồn con người. Sự kiện được nhắc đến trong truyện không nhiều nhưng từ những chiếc “mắc treo” ấy, tác giả đã làm một hành trình xâm nhập, giãi bày những trạng huống cảm xúc diễn ra trong tâm hồn nhân vật trước hoàn cảnh, khám phá con người ở chiều sâu vô thức 19 và tâm linh trong và sau chiến tranh. Đây là kiểu cốt truyện của Bức chân dung của người đàn bà lạ Chu Lai, Dòng sông trinh nữ Sương Nguyệt Minh, Mỗi tháng có một rằm Lê Hoài Lương... Tiếp thu kiểu cốt truyện trữ tình, nhà văn đương đại vận dụng một cách nhuần nhuyễn và tinh tế trong cái nhìn hướng về số phận cá nhân con người sau chiến tranh. Cốt truyện dòng ý thức là một bước phát triển của cốt truyện tâm lý. Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, loại cốt truyện này chưa đạt đến mức “điển hình” nhưng đã xuất hiện một số tác giả sử dụng như một phương tiện tìm kiếm những nhận thức mới mẻ, sâu sắc về thế giới bên trong của con người. Có thể gặp kiểu cốt truyện này trong Sám hối Phùng Văn Khai, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Hoài vọng Văn Xương... Xu hướng tự do hoá cốt truyện Trong văn xuôi đương đại, người ta có thể nói đến sự “lỏng lẻo”, “thu nhỏ” cốt truyện, nhà văn không tuân theo nguyên tắc truyền thống để xây dựng cốt truyện. Một loại cốt truyện nữa tuy xuất hiện không nhiều nhưng cũng là thể nghiệm mới mẻ của nhà văn khi viết về chiến tranh, đó là cốt truyện mang yếu tố hậu hiện đại Chú lùn thứ bảy, Bến trần gian, Âm thanh của kí ức. Quan niệm mới trong văn học đương đại hướng đến một “hiện thực không hoàn kết”, không thể biết trước. Vì vậy, truyện ngắn chiến tranh có xu hướng chuyển đổi từ cách kết thúc đóng sang kết thúc mở và không có hậu, tạo ra sự bất ngờ, để lại nhiều dư âm, gợi mở. Việc tổ chức truyện ngắn với cốt truyện, đoạn kết một cách sáng tạo, độc đáo đem lại nhiều cách cảm nhận về đề tài chiến tranh, phù hợp với cảm thức của đời sống hiện đại. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện Vai trò của tình huống trong truyện ngắn 20
Ngày đăng 09/11/2012, 1055 Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Trần Quốc Tuấn Nam Định đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Nguyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục lục Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975 . 3 Những bài nghiên cứu về tác giả 7 Những bài viết về tác phẩm 8 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 9 nhiệm vụ nghiên cứu . 9 Đối tượng nghiên cứu 9 4. Phương pháp nghiên cứu . 10 5. Đóng góp của luận văn 10 6. Cấu trúc của luận văn 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội 12 Tình hình đất nước sau chiến tranh .12 Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội . 13 Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc . 14 2. Tình hình phát triển của văn xuôi . 15 3. Diện mạo của truyện ngắn 19 Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người . 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng .35 Thành tựu của truyện ngắn 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975 . . 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư . 51 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985 . 62 Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư 63 Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng . 65 Sự trở lại của cảm hứng bi kịch . . 69 cảm hứng phê phán 71 Cảm hứng nhân văn .72 Chương III Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện .75 Khái niệm và vai trò của cốt truyện 75 Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975 76 Các đặc điểm kết cấu cốt truyện . 80 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985 87 Các kiểu nhân vật mới . 89 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật . 96 3. Nghệ thuật trần thuật .103 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật . 107 Phần kết luận 110 Tài liệu tham khảo 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. 2. Lịch sử vấn đề. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975. Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006, tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét Từ 1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường Vương Trí Nhàn ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng nhiên, trong truyện ngắn và cả truyện vừa thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985. Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997 cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức. Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn “Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến “Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001. Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới. Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999 Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường. Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường “Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000. Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996 cho rằng trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Tác giả Nguyễn Văn Long “Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006 khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra [...]... lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Chương III Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 19751985 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985 1 Bối cảnh... đầu của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức biểu hiện Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau chiến tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 19751985 Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong... luận án đã có, chúng tôi thấy nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo... hợp của câu chữ Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992 Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt... cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển... của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện Hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu truyện ngắn ở những giai đoạn sau 6 Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện. .. giai đoạn sau Những bài viết về tác phẩm Trong khoảng 10 năm từ 1975 đến 1985 số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn Có thể kể đến các tập truyện. .. những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong một giai đoạn. .. loại, truyện ngắn đã chưng cất những mảng hiện thực của cuộc sống chiến tranh Mặc dù phần lớn truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 viết về chiến tranh vẫn bám vào các sự kiện, vẫn lấy sự kiện làm trục chính song cách triển khai vấn đề ở những truyện ngắn này cũng không hoàn toàn giống trước Những hoàn cảnh ngặt nghèo, những khúc bi thương nhất của chiến trận vẫn được khắc hoạ đậm nét trong nhiều truyện ngắn ... xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không . nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến. truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985, Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985, , Lí do chọn đề tài, Những bài viết về tác phẩm, Phương pháp nghiên cứu Đóng góp của luận văn Cấu trúc của luận văn, Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng, .Thành tựu của truyện ngắn, Sự tiếp tục đề tài chiến tranh, Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư, Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư, Cảm hứng đạo đức thế sự giữ vị trí quan trọng, Sự trở lại của cảm hứng bi kịch, Cảm hứng phê phán, Xu hướng lắp ghép liên văn bản, Vai trò của biến cố trong diễn biến cốt truyện, Đặc điểm của đoạn kết trong cấu trúc truyện, Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau, Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Trần Quốc Tuấn Nam Định đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Nguyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục lục Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề........................................................................................ 3 Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975................................................................................. 3 Những bài nghiên cứu về tác giả.................................................... 7 Những bài viết về tác phẩm............................................................ 8 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu........................................................ 9 nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 9 Đối tượng nghiên cứu.................................................................... 9 4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 10 5. Đóng góp của luận văn.......................................................................... 10 6. Cấu trúc của luận văn............................................................................ 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội........................................................................ 12 Tình hình đất nước sau chiến tranh...............................................12 Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội....................................................................................... 13 Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc............................................................. 14 2. Tình hình phát triển của văn xuôi......................................................... 15 3. Diện mạo của truyện ngắn.................................................................... 19 Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người......................................................................................................... 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng.............................35 Thành tựu của truyện ngắn.......................................................... 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975..................... ........... 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh.......................................................... 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư..................... 51 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985..... 62 Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư...... 63 Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng....................................... 65 Sự trở lại của cảm hứng bi kịch............................................... ... 69 cảm hứng phê phán........................................................................71 Cảm hứng nhân văn.......................................................................72 Chương III Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện.................................................................75 Khái niệm và vai trò của cốt truyện..............................................75 Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975....................................................................................................76 Các đặc điểm kết cấu cốt truyện................................................. 80 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985............ 87 Các kiểu nhân vật mới ............................................................. 89 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật................................................................................................. 96 3. Nghệ thuật trần thuật...........................................................................103 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật............................................ 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật..................................... 107 Phần kết luận.............................................................................. ........ 110 Tài liệu tham khảo ............................................................................ .. 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. 2. Lịch sử vấn đề. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975. Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006, tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét Từ 1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường Vương Trí Nhàn ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng nhiên, trong truyện ngắn và cả truyện vừa thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985. Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997 cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức. Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn “Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến “Văn học Việt Nam hiện đại Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001. Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới. Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999 Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường. Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường “Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000. Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996 cho rằng trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Tác giả Nguyễn Văn Long “Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006 khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để có các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Bên cạnh đó sự thay đổi vai kể, cách đưa truyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một thời gian duy nhất là những nét mới trong nghệ thuật biểu hiện. Tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật mới để đáp ứng xu thế của thời đại. Nhà văn Ma Văn Kháng lại rất chú ý đến ngôn ngữ của truyện ngắn. Theo ông, đó là thứ ngôn ngữ vừa dung dị, vừa ma quái thêm, nó sử dụng đến sức mạnh tổng hợp của câu chữ “Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992. Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt cả thế kỷ XX Bùi Việt Thắng “Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2000. 2. 2. Những bài nghiên cứu về tác giả Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Ma Văn Kháng. Bởi trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản ngăn Lã Nguyễn, “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật”, Tạp chí văn học số 2-1989. Tuy nhiên các tác giả Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng lại chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết. Với truyện ngắn, bên cạnh Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Minh Châu - người mở đường tinh anh và tài hoa - còn phải kể đến nhiều cây bút khác như Thái Bá Lợi, Nhật Tuấn, Xuân Thiều, Trung Trung Đỉnh, Bùi Hiển, Dương Thu Hương, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long, Lê Minh Khuê... Những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất nhiều. Đặc biệt đáng chú ý là các ý kiến đông đảo của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Tôn Phương Lan, Huỳnh Như Phương, Tô Hoài, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành Nghị, Trần Đình Sử, Trần Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Thiếu Mai, Bích Thu, Vương Trí Nhàn... Hầu hết các ý kiến chỉ dừng lại ở mức độ phân tích đánh giá sự thành công của từng tác giả. ở giai đoạn đầu, có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều nhau về cùng một tác giả, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều thừa nhận những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trên hành trình đổi mới xong trong số đó vẫn còn ý kiến tỏ ra nghi ngại. Nhận xét một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, nhà văn Bùi Hiển băn khoăn về việc tác giả đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn Nhiều tác giả, “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu”, Văn nghệ 1985 số 27 và 28. Tác giả Hà Xuân Trường thì cho rằng ông chỉ thành công một nửa. Hay trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong những truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của người đời có ý kiến cho rằng đã làm xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường của con người, dẫu đó là những mẫu hình tiêu cực trong đời sống chúng ta Bích Thu, “Truyện ngắn Dương Thu Hương. Tạp chí Văn học . số 2. 1983 nhưng lại có ý kiến ủng hộ cách viết này dù cho ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả thậm chí là có phần ác quá. Song ta đã chấp nhận phong cách này, thì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa vời Vương Trí Nhàn trong “Văn học 1975-1985- Tác phẩm và dư luận”, Nxb hội nhà văn, 1997. Đúng là ở chặng đầu của hành trình đổi mới, các tác giả của văn xuôi nói chung và các cây bút viết truyện ngắn nói riêng mới chỉ khoan những mũi thăm dò đầu tiên trên những vùng đất mới. Có mũi thăm dò thành công nhưng cũng không ít thất bại. Song những nỗ lực của họ đã được ghi nhận. Vì chính họ đã góp phần chuẩn bị để tạo ra một vụ mùa lớn của thể loại ở giai đoạn sau. Những bài viết về tác phẩm Trong khoảng 10 năm từ 1975 đến 1985 số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ. ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn. Có thể kể đến các tập truyện của các tác giả Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành 1983, Bến quê 1985; Xuân Thiều với Gió từ miền cát 1985; Dương Thu Hương với Những bông bần li 1981; Ma Văn Kháng với Ngày đẹp trời 1986; Lê Minh Khuê với Đoạn kết 1983, Một chiều xa thành phố 1986…và các tập truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội Có một đêm như thế 1981, Thời gian 1985… Số lượng các bài viết này rất nhiều, đăng tải cả trên báo trung ương và báo địa phương dưới dạng thức điểm sách hoặc phê bình. Loại bài viết này phần lớn đều nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận về nội dung hoặc nghệ thuật, về những phương diện đổi mới của từng truyện ngắn hay tập truyện ngắn cụ thể. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của thể loại cũng như của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Chung quy lại, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các cuốn sách, các bài báo, các ý kiến trong các cuộc trao đổi, thảo luận, các cuộc hội thảo và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi thấy nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề. Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo sơ bộ, hoặc là những nhận định khái quát hay đi vào từng khía cạnh cụ thể của thể loại. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới. Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển của văn xuôi nói chung. 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi sâu tìm hiểu diện mạo và những đổi mới bước đầu của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức biểu hiện. Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau chiến tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 19751985. Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi. Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong khoảng 10 năm này rất nhiều, luận văn sẽ không thể bao quát được hết. Để khoanh vùng phạm vi khảo sát, luận văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 thống kê, nghiên cứu những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong một giai đoạn khá phong phú và phức tạp này. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích, tổng hợp 5. Đóng góp của luận văn Luận văn cố gắng đi sâu làm nổi bật những dấu hiệu đổi mới của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện. Hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu truyện ngắn ở những giai đoạn sau. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương III Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 19751985. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985 1. Bối cảnh lịch sử xã hội Tình hình đất nước sau chiến tranh Với thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước đã thu về một mối, Nam - Bắc một nhà. Khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về một nền tự do, độc lập phải trải qua ngót nửa thế kỷ chiến đấu kiên cường đã trở thành hiện thực. Chiến tranh khốc liệt đã qua đi, đất nước hào hứng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ngay sau niềm vui chiến thắng, cả dân tộc phải đối mặt với hàng loạt khó khăn chồng chất. Đó là thời kỳ chúng ta lâm vào khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội. Cơ chế quản lý cũ bộc lộ nhiều bất cập đòi hỏi phải có sự đổi mới. Đất nước hoà bình nhưng cuộc sống lại vận hành một cách khó nhọc, nặng nề. ở miền Bắc, những cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài. Gần như toàn bộ các thành phố thị xã đều bị đánh phá. Thậm chí có thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp đều bị đánh phá, nhiều khu bị đánh tới mức huỷ diệt. Với miền Bắc, dù chiến tranh đã chấm dứt sau hiệp đinh Pari năm 1973 nhưng do bị tàn phá nặng nề nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành. ở miền Nam, việc tiếp quản các vùng mới giải phóng được tiến hành hết sức khẩn trương. Việc thành lập chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Chính quyền cách mạng kêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 gọi những người từng làm việc trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền ra trình diện đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ ngoan cố chống đối. Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được sử dụng kịp thời vào công tác thông tin tuyên truyền cổ động. Những hoạt động trên ở hai miền Nam Bắc bước đầu đã ổn định tình hình khinh tế xã hội của đất nước ngay sau chiến tranh. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiệm vụ giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã hoàn thành. Nhưng về thể chế chính trị, chúng ta vẫn chưa có một nhà nước chung. Do đó yêu cầu hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được đặt ra một cách bức thiết. Ngày 25- 4- 1976, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Ngay sau đó Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước trong thời kỳ mới. Từ đây, nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vữc chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam lần thứ IV nêu rõ Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã được cụ thể hoá trong hai kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 1980 và 1981 - 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đạt được những kết quả nhất định tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đời sống của đại bộ phận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 nhân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều lao động chưa có việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về vật chất và văn hoá chưa được đảm bảo. Mặt khác các hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một sổ cán bộ chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. Thực trạng kinh tế xã hội đó đã làm lay động dữ dội mọi suy nghĩ, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân. Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hoà bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do và độc lập [25]. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Sau 30 năm chiến tranh liên miên, khi đất nước vừa được độc lập tự do, chúng ta lại tiếp tục đối mặt với những cuộc xâm lược mới. Từ tháng 5- 1975 đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng Xari đổ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Chúng dần dần mở rộng thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Tuy nhiên, hành động của chúng đã bị quân dân ta ngăn chặn và làm thất bại năm 1978. Không những thế, chiến thắng biên giới Tây Nam của ta đã tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Campuchia giành thắng lợi. ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã có những hành động làm tổn hại đến tình cảm của hai nước như cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới, rút chuyên gia… Nghiêm trọng hơn, tháng 2 năm 1975, Trung Quốc đã mở cuộc tấn công nước ta dọc theo biên giới từ Móng cái đến Lai Châu. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu buộc Trung Quốc phải rút quân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Chấm dứt hai cuộc xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam, nước ta đã bảo vệ toàn vẹn lành thổ và khôi phục, giữ vững tình đoàn kết hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng. Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước 10 năm sau chiến tranh có nhiều chuyển biến phức tạp. Điều này có tác động không nhỏ đến đời sống của văn học nước nhà. 2. Tình hình phát triển của văn xuôi Sự phát triển của một nền văn học nói chung, văn xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này. Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không bình thường của chiến tranh sang cuộc sống bình thường, hàng ngày của nhân dân. Tuy nhiên, văn học lại không sang trang cùng lúc với lịch sử. Nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật, những cảm hứng chủ đạo trong chiến tranh cho đến khoảng đầu những năm 1980. Điều này đúng với lý luận của Mác ý thức thường chậm hơn so với thực tại xã hội. Sự chạy theo quán tính này của văn học dẫn đến tình trạng mất độc giả. Sau chiến tranh, các nhà văn có điều kiện, có nhiều thời gian hơn để viết thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học và công chúng, giữa sáng tác và người đọc lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi. Người đọc quay lưng lại với những sáng tác hiện tại. Đó cũng chính là khoảng thời gian mà Nguyên Ngọc gọi là khoảng chân không trong văn học. ở đó, âm không truyền đi được. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Nền văn học chững lại, không ít người viết lâm vào tình trạng hoang mang, bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng dần dần họ cũng tìm ra nguyên nhân cuộc sống thay đổi rất nhiều mà văn học vẫn giữ nguyên bộ quần áo cũ. Đời sống hoà bình nhưng hoá ra lại phức tạp hơn trong chiến tranh rất nhiều. Bởi trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại trong một mối quan hệ duy nhất sống - chết. Tất cả những quan hệ đời thường, riêng tư bị đẩy lại phía sau, thậm chí bị triệt tiêu để hướng đến mục tiêu duy nhất chiến đấu để chiến thắng. Chính ngọn lửa chiến tranh đã thiêu cháy những sự nhỏ nhen, tính toán, bon chen của cuộc sống thường nhật. Nếu trong chiến tranh trăm người như một, đồng tâm nhất trí cho sự nghiệp chung thì hoà bình lại khác. Con người trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với những lo toan cá nhân, những mất mát trong chiến tranh, những khó khăn của cuộc sống kinh tế, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa quyền lợi riêng và quyền lợi chung không hoàn toàn thống nhất như trước đây. Do đó tất cả đều cần một sự thay đổi mới để có một cách nhìn, một cách nghĩ mới với tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng được những điều kiện mà thực tế đặt ra. Trong những điều kiện lịch sử ấy, văn xuôi đầu năm 80 cũng đã trải qua những trăn trở cho một cuộc chuyển mình. Tuy nhiên sự vận động ấy còn do yêu cầu nội tại của chính nền văn học. Đó là sự phát triển của tư duy nghệ thuật ở một trình độ mới. Sự vận động của văn học giai đoạn này trước hết là ở khuynh hướng sáng tác, ở quan niệm về hiện thực và con người, ở phương thức tiếp cận và miêu tả thực tại. Đầu những năm 80 trong văn xuôi đã hình thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng sử thi, tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc biệt ở đội ngũ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến. Nhiều cây bút văn xuôi hướng tới việc tạo dựng bức tranh toàn cảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng , sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. 125 trang Chia sẻ lylyngoc Lượt xem 4983 Lượt tải 6 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênng cảnh ngộ, những bi kịch riêng thì đã hình thành rõ nét. Đó là số phận của người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà ấy đã từng là con một nhà khá giả, nhưng vì xấu nên không có ai lấy. Sau đó chị có mang với một anh con trai nhà hàng chài giữa phá và bắt đầu cuộc đời lênh đênh trên sông nước. Cuộc sống dưới thuyền không xuôn xẻ gì lại thêm một lũ con nheo nhóc khiến anh chồng từ một anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập vợ con trở thành một kẻ vũ phu. Bi kịch của đàn bà ở chỗ cứ ba ngày bị chồng đánh một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng vậy mà chị ta một mực khăng khăng xin quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó[11/342]. Tại sao một người bị chồng đánh một cách tàn nhẫn lại không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy? Vì sao chị ta thà hàng ngày chịu đòn của chồng chứ nhất định không li dị hắn? Thì ra, ngã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của người đàn bà làng chài, nhất là những khi biển động. Hơn thế chị còn phải nuôi những đứa con, chị đâu chỉ sống cho riêng mình, chị còn phải sống vì chúng nữa. Mặt khác cuộc sống trên thuyền cũng có lúc bình yên, vợ chồng con cái sống vui vẻ, thuận hoà. Dường như trong hoàn cảnh này, cách hành xử của người đàn bà này là không thể khác. Giải pháp bỏ chồng mà ông chánh án đưa ra cho trường hợp của chị là không khả thi. Bởi hơn ai hết người đàn bà ấy hiểu rằng chị đau đớn về thân thể nhưng không thể oán giận chồng. Số phận của anh ta cũng nghiệt ngã chẳng kém gì chị. Anh ta đáng bị lên án bởi sự vũ phu và bởi tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn những bực bội trong lòng. Nhưng anh ta cũng đáng nhận được sự cảm thông bởi gánh nặng gia đình. Xét đến cùng anh ta chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. ở đây Nguyễn Minh Châu nhìn nhận số phận của con người trong cuộc sống không đơn giản mà đa diện, nhiều chiều. Bởi thế người nghệ sĩ bao giờ cũng nhìn thấy đằng sau cái màu hồng của ánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 sương mai trong bức ảnh còn là hình ảnh người đàn bà làng chài bước ra khỏi tranh. Chị là hiện thân của những lam lũ khốn khó đời thường nhưng cũng tiềm ẩn trong đó những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Số phận của chú bé Kiểm Kiểm - chú bé- con người của Ma Văn Kháng lại khiến người đọc không khỏi day dứt. Bố mẹ bỏ nhau, Kiểm ở với bố, mẹ kế và hai đứa em cùng cha khác mẹ. Trên thân thể em thường hằn lên những dấu vết của những trận đòn và sự hành hạ từ bà mẹ kế. Bà dì vốn cưng chiều con mình, để thoả mãn tình thương ấy bà phải hành hạ, trút cái vất vả khổ cực lên đầu em. Thậm chí cả hai đứa trẻ cũng sớm bị ảnh hưởng cái thói cay nghiệt, cái đặc quyền được đày đoạ con chồng nên đành hanh, nhiều khi quái ác đổ tội lên thằng anh để nó lại phải hứng chịu đòn oan. Một đứa trẻ không may rơi vào cảnh ngộ éo le này, rất dễ trở nên cằn cỗi, thui chột hết cái mầm nhân bản, hết khả năng yêu thương, thậm chí là lạnh lùng, nhẫn tâm với đồng loại. Nhưng Kiểm không chai lì, không tàn nhẫn. Bị vùi dập và dồn vào cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm thì em vãn còn giữ được một khoảng cách, chưa đồng hoá với cái xấu. Em yêu thương và chăm sóc chu đáo cho hai đứa em cùng cha khác mẹ với tư cách là một người anh. Em sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ với những người nghèo khó. Khi người mẹ kế lâm bệnh, em đã tự nguyện trở về với một tình yêu vừa non tơ vừa quảng đại và quả cảm. Bởi em nghĩ suốt đời làm người khác khổ thì mình có sung sướng gì đâu. Kiểm là hệ quả của số phận rắc rối giao tiếp qua nhau, là hệ quả những va đập dưới áp lực của những quan niệm đạo đức và dục vọng khác nhau. Sự mưu cầu lợi ích vị kỷ, sức thôi thúc của dạ dầy và trái tim, lầm lỡ cả những tái tạo hồi sinh đã đảo lộn cơ tầng đời sống… làm nảy sinh những đứa trẻ bơ vơ, mất nơi nương tựa và bẽ bàng[31/84]. Nhân vật Dì Út trong truyện ngắn cùng tên của Thanh Quế cũng là một số phận mang đầy tính bi kịch. Đó là người phụ nữ phải chịu cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần. Sau khi tiễn chồng đi tập kết ở Miền Bắc, người phụ nữ này thường xuyên bị bọn Mỹ nguỵ bắt đi tù, đánh đạp tra khảo luôn. Đau đớn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 hơn cả là đứa con gái duy nhất cũng chết vì bệnh trong lúc chị đang ở tù. Sau ngày miền Nam giải phóng, chị vẫn nuôi mẹ chồng và chờ chồng nhưng chồng chị thì không một lần trở lại. Hoá ra anh ta giờ đã là một quan chức, lại sắp đi làm tuỳ viên kinh tế ở nước ngoài. Để leo lên được địa vị đó, anh ta sẵn sàng bịa ra một cái thư giả của một người đã chết vu oan, bêu xấu vợ để lừa tổ chức. Khi vợ biết chuyện, anh ta một mặt đổ thừa cho hoàn cảnh, mặt khác quỳ xuống van vỉ chị bỏ qua. Những người thân muốn chị vạch mặt kẻ bội bạc dối trá kia nhưng chị giữ im lặng. Nếu làm như thế liệu vết thương lòng của chị có thể nguôi ngoai hay chị sẽ chỉ nhận được nhiều ánh mắt cảm thương hơn của người khác? Sự im lặng ấy là biểu hiện cuả lòng bao dung hay sự chấp nhận thực tại phũ phàng? Số phận của con người đã đi qua chiến tranh không chỉ có vầng hào quang mà còn có cả những đau thương mất mát. Khi viết về cái đa đoan của con người trong cuộc sống, truyện ngắn sau 1975 cũng xuất hiện kiểu nhân vật cô đơn. Trong những năm chiến tranh không có con người cô đơn mà chỉ có con người tập thể, con người quần chúng. Xung quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc… con người không có điều kiện để soi ngắm tâm hồn mình. Sau 1975, với quan niệm con người cá thể, với sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì kiểu nhân vật cô đơn không phải là hiếm. Hơn nữa ở giai đoạn giao thời trong bề bộn cuộc sống thì thật - giả, trắng - đen, tốt -xấu không phải lúc nào cũng minh bạch như hồi chiến tranh. Con người có lúc hoang mang trước nhiều lựa chọn. Vì thế con người cô đơn trở thành một điểm xoáy thu hút nhiều tác giả truyện ngắn. Bằng nhiều cách, mỗi nhà văn đã đi vào khám phá các phương diện khác của sự cô đơn. Nguyễn Minh Châu đi vào nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh với một khoảng trống trong tâm hồn không gì bù đắp nổi Quỳ- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Dương Thu Hương lại xây dựng một kiểu nhân vật cô đơn đi tìm kiếm hạnh phúc, thứ hạnh phúc không thể với được trong tầm tay Ngân- Những bông bần li. Nhân vật cô đơn trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng thì tìm cách thì chạy trốn quá khứ ông Thiềng- Ngày đẹp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 trời. Còn Nghĩa Căn nhà ở phố- Nam Ninh lại cô đơn lạc lõng ngay chính gia đình của mình. Đến nỗi anh phải tạo ra một kịch bản giả viết thư cho chính mình để tìm một cái cớ hợp lý cho việc rời khỏi gia đình. Nhiều nhân vật cô đơn trong truyện ngắn sau 1975 là những con người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Họ không dễ dàng hoà nhập với những thay đổi trong cuộc sống hoà bình. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện những nhân vật cô đơn về trạng thái tâm hồn. Đó là sản phẩm của những va đập trong cuộc sống đời thường, trong những quan niệm đạo đức nhân sinh trong cách ứng xử như nhân vật Đính trong Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân. Anh là một con người có tài năng và trách nhiệm cao trong công việc. Anh luôn tìm ra một phương án tối ưu để sửa chữa cho những dự án sai lầm. Đó là một công việc rất hữu ích nhưng không phải lúc nào cũng được mọi người ủng hộ. Người cho rằng anh đang chống lại tập thể, người lại tưởng anh đang tranh chấp quyền lực, đến người anh yêu cũng không dám ra mặt ủng hộ anh. Vì thế, cuộc sống của anh luôn vấp phải rất nhiều những hiểu lầm, những lời chỉ trích gay gắt và suốt cuộc đời anh đã luôn phải đấu tranh cho chân lý trong cô đơn. Như vậy, cô đơn thực chất là chuyện của những số phận, những con người cá nhân nhưng nó không phải là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Đi vào từng mảnh đời cô độc là những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Thể hiện con người cô đơn chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn sau 1975 để góp phần giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những tình cảm sâu kín thuộc về vấn đề con người. ở mỗi truyện ngắn sau chiến tranh là từng cá thể, từng mảnh đời thầm lặng hay sôi động. Chân dung và số phận con người đã được thể hiện khá sinh động sâu sắc, đa chiều. Đi sâu vào tâm hồn con người, nhà văn thấy được ở mỗi số phận ấy từng niềm vui, nỗi buồn hay sự đau khổ, khao khát, đam mê. Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Có ý kiến cho rằng truyện ngắn sống bằng nhân vật và nó bộc lộ đầy đủ những đặc tính của thể loại, mở ra cho văn học những đề tài, những vấn đề mới của đời sống bằng những hình tượng văn học. Nếu truyện ngắn 1945- 1975 thể hiện quan niệm con người tập thể, con người quần chúng nên nhân vật thường được thể hiện trong các sự kiện, biến cố lịch sử thì truyện ngắn sau 1975, trở về con người cá nhân. Nhân vật thường được thể hiện qua các mối quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua miền ý thức, vô thức đầy bí ẩn, phức tạp. Với xu hướng khám phá, thể hiện con người mới mẻ như vậy, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 đã hình thành một số kiểu nhân vật mới. Cách biểu hiện nhân vật cũng đang có những chuyển biến mới. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh xây dựng con người quần chúng, con người hiện thân cho ý chí cách mạng. Đó là những con người cầm súng và quyết thắng lấn át con người bình thường, con người tinh thần, ý chí nổi lên trên con người vật chất, con người vì nghĩa lớn lấn át con người riêng tư[81/428].Việc đi sâu khai thác tâm lí con người chưa được coi là một thao tác bình thường trong văn học giai đoạn này. Tuy nhiên, khi văn học trở về với con người cá nhân, con người trong cuộc sống đời thường thì việc miêu tả tâm lí con người lại như một lợi thế của văn xuôi nói chung. Bởi lẽ khi các tác giả tập trung sự chú ý vào quá trình hình thành cá tính, tính cách của con người tất yếu sẽ dẫn đến sự tăng cường yếu tố phân tích tâm lí và khắc họa cá tính nhân vật. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 có thể nhận thấy, các nhà văn đã khá nhạy bén trong việc miêu tả tâm lí, cá tính, tư tưởng của con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự miêu tả những xung đột nội tâm, những rung động trong cảm xúc, những biến đổi trong tâm lí nhân vật chứ chưa hoàn toàn nắm bắt trọn vẹn một quá trình tâm lí, tư tưởng để xây dựng những hình tượng nghệ thuật có sức sống lâu bền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Trong khi miêu tả tâm lí nhân vật, các tác giả thường để cho nhân vật tự ý thức về bản thân mình trong những mối quan hệ với xung quanh, tự mình bộc lộ với chính mình những suy nghĩ và cảm xúc chân thực nhất. ở đó thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu để nhân vật tự bộc lộ những suy tư, trăn trở của bản thân. Những tiếng nói từ bên trong, những lời tự vấn của người họa sĩ trong Bức tranh Nguyễn Minh Châu chính là động lực thúc đẩy sự phát triển tính cách của anh ta. Lúc đầu, khi phát hiện ra lỗi lầm do sự thất hứa của mình, anh ta đã day dứt Tại sao ngày ấy tôi đã không dưa tấm ảnh đén cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Tôi đã hứa với anh và cả tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ?[11/126]. Rồi chính anh lại tự biện minh cho việc làm của mình Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là anh thợ vẽ truyền thần, công việc của người nghệ sĩ là phải phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một người[11/127]. Những lời tư biện này chứng tỏ anh ta chưa thấy được hết cái nguy hiểm của thói quen lấy lợi ích cộng đồng làm bình phong che chắn cho hành vi thất hứa của mình. Vì thế, xung đột nội tâm của nhân vật chưa dừng lại ở đó mà được đẩy cao hơn trong cuộc đối thoại tưởng tượng với người thợ cắt tóc. Đó là một thứ trảm hình trong lòng nhân vật để anh ta nhận ra cái bộ mặt thật của mình vừa được lột ra khỏi cái mặt nạ hàng ngày. Truyện ngắn này lôi cuốn người đọc bởi cách xoáy sâu vào tâm lí nhân vật và nghệ thuật tạo căng thẳng dần, siết chặt dần từ cảm giác ân hận bị dìm xuống đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn không dứt mãi không thôi trong lòng nhân vật. ở đây, tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đi đến tận cùng sự phân tích bên trong để nhìn rõ chính nó. ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu tỏ ra là cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lí khá phức tạp của một tâm hồn không đơn giản như Quỳ. Nhà văn chọn cho câu chuyện của mình bằng dạng thức tự kể của nhân vật chính. Đó là những lời kể chân thành như lời tự thú của Quỳ. Rồi cứ thế cả thiên truyện dần dần hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 ra cùng vói việc khám phá phần cốt lõi khó khăn phức tạp đầy biến động nhất của nội tâm, đó là các cuộc tình của Quỳ. Đúng là để xây dựng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu đẫ phải huy động một khối lượng đậm đặc những chi tiết, những chi tiết buộc phải có nhiều kinh lịch trên đường viết văn, một quan sát tinh tế lắm, một vốn hiểu biết về nhân vật sâu sắc mói có thể có được[81/311]. Mỗi nhà văn trong từng truyện ngắn của mình có những khám phá riêng về đời sống tâm hồn của nhân vật. Nếu Vũ Tú Nam trong Đi đón cơn mưa miêu tả thành công những xao động trong tâm hồn của một người thầy giáo khi biết được tình cảm của một người phụ nữ có số phận bất hạnh dành cho mình thì Thùy Linh lại đọc ra được một nghị lực ghê gớm, một sự thèm khát tình yêu của bố mẹ trong đôi mắt vốn lạnh lùng của cậu bé Nguyên Mặt trời bé con của tôi. Phạm Thị Minh Thư miêu tả những trạng thái tâm hồn đầy tinh tế, thơ mộng và tràn đầy niềm tin của nhân vật trong một đêm tản cư mà có lẽ chẳng sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi Có một đêm như thế. Dù rằng mỗi tác giả truyện ngắn mới chỉ đi vào miêu tả tâm lí nhân vật trong từng thời khắc nhất định chứ chưa phải là toàn bộ quá trình tâm lí thì điều này cũng đã góp phần làm cho nhân vật được soi chiếu ở nhiều bình diện. Mặt khác khi đi vào miêu tả tâm lí nhân vật, các cây bút truyện ngắn còn sử dụng yếu tố tâm linh như một biện pháp để khám phá sâu hơn nội tâm nhân vật. Với các hình thức giấc mơ, điềm báo, đối thoại giữa những mảng tâm linh… nhờ đó chất người được bộ lộ đa chiều, đa diện hơn. Dưới hình thức những cơn mộng du Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Nguyễn Minh Châu đã khắc họa sâu sắc những tình cảm của một người đàn bà suốt đời lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt đối. Cả thiên truyện dường như được bao bọc trong một bầu không khí phảng phất màu sắc mộng mị, huyền thoại. Nhiều lần trên con tàu mộng du của Quỳ yếu tố tâm linh đã xuất hiện góp phần soi tỏ nội tâm nhân vật. Chẳng hạn khi gặp pho tượng Phật ngàn tay ngàn mắt ở một ngôi chùa trong một lần đi công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 tác, Quỳ nghĩ ngay đến đôi bàn tay của người trung đoàn trưởng đã hi sinh. Quỳ nâng vạt áo quân phục dính đầy dầu mỡ lên lau sạch những lớp bụi bám trên một bàn tay. Nhưng khi vừa chạm tới, vạt áo của chị đã ướt đẫm mồ hôi, y như mồ hôi người cứ dấp dính toát ra từ chất gỗ. Và cảm giác của nhân vật lúc này hoàn toàn được soi chiếu từ ánh sáng của tâm linh Tôi sợ hãi lùi ra xa, ngước nhìn khuôn mặt ấy tự nhiên tôi bỗng hoảng hốt khi nhận ra đang phảng phất trên cặp môi bằng gỗ, vẫn cái nụ cười ấy, cái nụ cười bí ẩn mà tôi đã trông thấy rất nhiều lần hiện lên trên cặp môi anh ấy trước khi chết[11/164]. Dưới hình thức của một giấc mơ, truyện ngắn Mai Thanh Quế lại bộc lộ được những diễn biến tâm trạng nhân vật người cha sau nhiều ngày đi tìm mộ con không đem lại kết quả gì. Một buổi sáng khi ông vừa định trở dậy thì chẳng hiểu vì lí do bí ẩn nào một cơn buồn ngủ đến nhức cả mắt kéo ông nằm xuống. Ngay lập tức một cơn mơ lạ đến với ông. Trong giấc mơ, ông đã gặp con gái mình trong một rừng dương. Kì lạ thay giấc mơ ấy lại trùng với manh mối để tìm ra mộ con ông. Ông thấy cái việc tìm mộ con có điều gì thật bí ẩn, nó giông giống như trong giấc mơ. Phải chăng vong hồn cô con gái đã mách bảo cho người cha? Hay đó chính là cái ánh sáng được phát ra từ thế giới bên trong như một sự mác bảo của tâm linh? Bởi lẽ vốn từ xưa ông không hề mê tín. Nhưng hôm nay, tự nhiên ông thấy trong lòng ông rao rực, tai ông nóng bừng và chung quanh nhà ông lâu nay im ắng bỗng có một bầy chim lạ về chao hót[67/273]. Diễn tả cái khoảnh khắc biến động trong tâm hồn người cha từ đời sống tâm linh như thế cũng là một cách đi vào chiều sâu tâm hồn nhân vật. ở Những bông bần li Dương Thu Hương thì sự kết hợp của hai yếu tố thực và ảo cũng góp phần soi sáng chiều sâu tâm thức nhân vật. Nếu cuộc sống hiện tại với người chồng hờ hững vô tâm chỉ đem lại cho Ngân những bực bội, đau khổ thì hình ảnh và sự hi sinh của Nghiêm người yêu trong quá khứ của Ngân lại đem đến cho chị những sự nâng đỡ. Dù rằng những tình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 cảm ấy chỉ như một tiếng sấm vọng về từ cuối trời xa khi cơn giông đã qua đi lâu lắm thì nó vẫn làm cho người đàn bà ba mươi lăm tuổi ấy lần đầu tiên biết nghĩ đến đời mình một cách thấu đáo. Cũng là lần đầu tiên chị tìm thấy nguồn sáng riêng biệt cho đường đi của mình[67/157]. Sự soi rọi từ bóng hình của người chiến sĩ đã hi sinh có tác động thăng bằng và thanh lọc tâm hồn Ngân. Nó như một luồng ánh sáng thoạt đầu còn mỏng manh như sợi khói trong cõi vô thức xa xôi nhưng dần dần nó rõ nét hơn, lớn hơn choán hết tâm trí chị. Như vậy, trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phương diện đời sống tâm linh con người được khám phá ở một chiều sâu mà giai đoạn trước đó chưa đạt đến. Nó góp phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về con người và tạo ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện nhân vật. Nhìn chung, việc khám phá sâu vào lĩnh vực tâm linh, mở ra những miền phong phú, bí ẩn không cùng của con người chính là xuất phát từ một quan niệm không đơn giản, xuôi chiều về con người, từ ý muốn khám phá con người ở nhiều thang bậc giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều chiều kích[21/288]. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau Bên cạnh việc phân tích tâm lí, nhân vật còn được đặt trong dòng thời gian và lịch sử, trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, trong những nghịch lí của tồn tại, trong sự khác biệt của những người hôm qua và những người hôm nay. Nguyễn Văn Long cho rằng giải pháp nghệ thuật mà một số truyện ngắn đã tìm đến là đặt nhân vật vào trong những chiều thời gian khác nhau, đan cài giữa hiện tại và quá khứ để làm nổi bật nghệ thuật này trong đời sống tinh thần và số phận mỗi con người khác nhau[39/218]. Việc sử dụng thời gian đồng hiện thường đi liền với những đối thoại bên trong của nhân vật như là những thủ pháp giúp nhà văn đi sâu hơn vào thế giới bên trong, vào những diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp của con người. Có thể kể đến những truyện ngắn đã thành công trong việc sử dụng giải pháp nghệ thuật này như Sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 trong thời gian hai chiều Vũ Tú Nam, Có một đêm như thế Phạm Thị Minh Thư, Gió từ miền cát Xuân Thiều, Người không đi cùng chuyến tàu Nguyễn Quang Thân… ở những truyện ngắn này việc đan xen giữa hiện tại và quá khứ thể hiện sự phân thân trong đời sống tinh thần của con người. Giữa những lo toan đời thường sau chiến tranh, con người vẫn dành một phần tâm tưởng cho quá khứ. Nhiều lần hiện tại mờ đi hoặc đi soi sáng nhờ quá khứ. ở Những bông bần li, quá khứ đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhân vật Ngân. Quá khứ với một người yêu đã hi sinh nhưng đôi mắt nâu dài, khi cười như có nắng của anh vẫn luôn theo chị. Đặc biệt là những lời nói cuối cùng của anh trước khi ra đi trong cuộc chiến đấu lâu dài này, tụi mình hi sinh phải lí hơn, tụi mình già rồi. Các cậu còn trẻ các cậu phải ở lại để đánh giặc cho tới lúc chiến thắng [67/153]như một sự thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị một lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống hiện tại Những bài học lịch sử…đó chính là luồng sáng lung linh nâng đỡ cuộc đời chị. Chị sẽ giáo dục các con chị, những học sinh nhỏ bé của chị, những thế hệ sau này biết rung động sâu xa trong đời sống chung, với những cội nguồn đem đến cuộc sống cho chúng[67/157]. Đúng như tên gọi của nó Sống trong thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam lại như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng chảy của thời cuộc. Tác giả đặt nhân vật ở thời điểm ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Chỉ mấy ngày trở lại quê hương nhưng ông An đã sống trong hai chiều thời gian của mấy chục năm. Thời gian đã cật vấn ông, nhào nặn ông, phán xét và thúc đẩy ông[67/866]. Nếu thời trẻ khi đi vào cách mạng lòng ông luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng thì khi cuộc sống trở về hoàn cảnh bình thường lại đặt ông trước bao mối quan hệ mới mẻ buộc phải lựa dòng đời, trước dòng thời gian, ông đã phải dừng lại để suy ngẫm chúng nó con cháu mình đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng, còn mình thì đứng giữa ư? Hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 theo hướng nào ?[67/850] Sự đồng hiện về thời gian ở truyện ngắn này gúp nhà văn đi sâu hơn vào những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Cái quá khứ trong veo, thoảng hương hoa loa kèn và âm hưởng của giọng nói vừa giễu cợt vừa trìu mến lại như một luồng gió tươi mát ùa vào tâm hồn mệt mỏi Miên Có một đêm như thế- Phạm Thị Minh Thư. ở truyện ngắn này, cái ánh sáng rạng rỡ của ngày hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hàng ngày hôm nay như nâng bước cho con người trong cuộc sống hiện tại. Trong Khách ở quê ra Nguyễn Minh Châu thời gian hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Khúng. Nhiều truyện ngắn khác lại có cuộc hành trình ngược về quá khứ như tìm đến một nguồn sức mạnh tinh thần để đi tiếp hành trình đến tương lai Tuổi thơ im lặng, Gió từ miền cát . Có thể nói, trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975, vấn đề thời gian chưa có nhiều ý nghĩa trong đời sống nội tâm con người như giai đoạn sau 1975. Đây không phải là thời gian của những sự kiện lớn lao hay thời gian vĩnh hằng trong dòng chảy của nó mà là thời gian trong ý thức của cá nhân, ý thức về từng khoảnh khắc đang sống. Đó là thời gian của những tâm trạng, gắn với những biến động trong đời sống mỗi con người cá thế việc đặt nhân vật vào những chiều thời gian khác cũng là một cách để miêu tả sâu sắc hơn đời sống nội tâm của con người . thuật trần thuật Theo từ điển thuật ngữ văn học trần thuật là phương diện cơ bản của thể loại tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của chủ thể trần thuật. Nghệ thuật trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc lĩnh hội theo ý định tác giả. Trong trần thuật có nhiều phương diện điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật…ở luận văn này chúng tôi chỉ khái quát những dấu hiệu đổi mới của nghệ thuật trần thuật trên các phương diện chính. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp trong cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của các tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý văn hoá[78]. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 cho thấy, điểm nhìn trần thuật được tổ chức chủ yếu từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Trần thuật ở ngôi thứ nhất, là hình thức mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Đây cũng là hình thức nghệ thuật được truyện ngắn nói riêng và văn xuôi nói chung sử dụng chủ yếu ở hai dạng cụ thể Trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò người dẫn truyện hoặc trao cho nhân vật chức năng trần thuật từ ngôi thứ nhất về hình thức nhân vật có thể xưng tôi nhưng không phải là tác giả. Trần thuật ở ngôi thứ nhất trong vai trò người dẫn truyện thực chất chủ thể trần thuật được nhân vật hoá để thực hiện vai trò dẫn truyện. Trước năm 1975, tuy chủ thể trần thuật cũng được nhân vật hoá nhưng thực chất vẫn là cái tôi hướng ngoại đại diện cho cộng đồng. Còn sau 1975, đó là cái tôi hướng nội, là sự trần thuật theo quan điểm cá nhân. Đó là nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật tôi Mặt trời bé con của tôi- Thùy Linh, nhân vật tôi Hạnh Nhơn - Nguyễn Thành Long...Với kiểu trần thuật này, người kể truyện thường xưng tôi đóng vai trò trung tâm, giữ quyền kể truyện từ đầu đến cuối chuyện. ở một số truyện hầu như tôi là nhân vật duy nhất, còn những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ điểm nhìn của người kể truyện Hạnh Nhơn. Qua hình thức kể truyện này, người kể truyện - tác giả - đã thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tự nhiên. ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trong khi kể lại cảnh người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người kể truyện đã bộc lộ ngay thái độ của mình Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới[11/336]. Còn ở truyện Hạnh Nhơn, trong tình huống nhận lầm cha của cô bé Hạnh Nhơn người kể chuỵện đã rất dễ dàng bộc lộ những băn khoăn suy nghĩ của mình Cuộc đời của em như thế nào mà em phó thác giọt máu đó của em cho anh? Tôi rất bối rối trong tình huống khó xử đó…Vậy thì tôi giải quyết như thế nào ý muốn của người đã khuất[8/309]. Như vậy, qua hình thức trần thuật này, thường là những nhân vật hướng nội, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình diễn biến tâm lí phức tạp. Người trần thuật cũng là người tham gia vào câu chuyện và nhiều khi in đậm dấu ấn của chính tác giả với những trạng thái tâm hồn, cảm xúc hoặc cuộc đời, số phận riêng không phẳng lặng. ở dạng thứ hai trong cách trần thuật từ ngôi thứ nhất thường là các nhân vật được tác giả trao cho chức năng trần thuật. Đó là Quỳ Người đà bà trên chuyến tàu tốc hành, là Miên Có một đêm như thế là Ngân Những bông bần li…Trao cho nhân vật nhiệm vụ trần thuật hoặc người kể truyện đứng đằng sau nhân vật, nhà văn không tham gia vào quá trình diễn biến câu chuyện mà để cho các nhân vật tự kể lại cuộc đời, số phận của mình. Cách trần thuật này giúp cho nhà văn có thể soi vào phần khuất lấp trong ý nghĩ của nhân vật vì người trần thuật vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của câu chuyện. Với cách trần thuật từ ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật là người biết hết mọi người, mọi việc và giữ vai trò duy nhất trong miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện. Trong truyện ngắn giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba thường tạo ra khoảng cách giữa người kể chuyện và đối tượng kể. Thời kỳ sau 1975, các nhà văn thường trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng có sự hoà nhập song trùng chủ thể khiến cho khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài để khẳng định cho một tư tưởng có sẵn, điểm nhìn trần thuật dịch chuyển vào bên trong ở lối trần thuật này, tác giả không chỉ kể mà còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong nhân vật trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 những lời độc thoại, những hồi tưởng, nhận thức, suy tư, chiêm nghiệm. Những truyện ngắn về đề tài thế sự của Nguyễn Minh Châu thường được trần thuật từ điểm nhìn này Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K… Trần thuật theo cách này, lúc đầu nhà văn trọn một điểm nhìn tương đối khách quan bên ngoài sau đó di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật. ở đó cái nhìn như xuyên qua nội tâm nhân vật trong một tính chất hoà nhập đậm nét đến mức tạo cho người đọc có cảm giác tác giả đã hoá thân vào nhân vật của mình, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của nhân vật. Truyện Sống mãi trong cây xanh của ông tiêu biểu cho cách trần thuật này. Lúc đầu, khi miêu tả công việc của bác Thông tác giả tỏ ra khách quan như người đứng ngoài chứng kiến vừa miêu tả, vừa kể lại. Nhưng khi kể đến việc chặt cây sấu, người kể chuyện như nhập hẳn vào nội tâm nhân vật, sống trong những tâm trạng đau đớn xót xa như sắp phải đứng để cho người ta cưa tay cưa chân mình. Sự hoà nhập, thậm chí hoá thân đó đã giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới đa dạng, đa chiều . Truyện ngắn giai đoạn chiến tranh thường có một giọng, một điểm nhìn trần thuật. Nhưng trong các truyện ngắn sau 1975, xu hướng chung là có sự phối hợp các điểm nhìn trần thuật. Có điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong, bên ngoài, điểm nhìn không gian thời gian, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc ...Tác giả để cho các điểm nhìn này đan cài vào nhau vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khắc hoạ toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận để từ đó khái quát lên những vấn đề có tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho việc phối hợp các điểm nhìn. Số phận đầy bi kịch của người đàn bà làng chài được Nguyễn Minh Châu soi chiếu từ nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật. Mỗi nhân vật một cách nhìn. Với cái nhìn của trẻ con vô tư, yêu ghét rạch ròi thì thái độ của thằng Phác là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 giận giữ nhảy xổ vào người bố để chống trả lại những trận đòn bảo vệ mẹ nó. Còn chị nó đã đủ lớn khôn hơn để ngăn giữ nó lại. Vị chánh án thì một mực đưa ra giải pháp li hôn và cho đó là cách giải quyết duy nhất để giải thoát cho người đàn bà kia khỏi sự vũ phu của người chồng. Nhà nhiếp ảnh thì vô cùng phẫn nộ trước cảnh tượng hết sức vô lí. Nhưng người đàn bà, nạn nhân của tấn bi kịch, lại khiến người khác giật mình lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải người là làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc[11/343]. Một người đàn bà với lũ trẻ đâu có sống dễ dàng gì giữa mênh mông sông nước nếu thiếu đi bàn tay chèo chống của người đàn ông. Người đàn bà ấy không sống cho mình mà sống vì những đứa con kia. Với sự đa dạng về điểm nhìn như thế, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là sự phát hiện ra những vấn đề nhức nhối của đời sống con người, buộc người đọc phải trăn trở trong những câu hỏi không dễ tìm lời giải đáp . Như vậy sự đa dạng và sự chuyển dịch liên tục các điểm nhìn trần thuật đã tạo ra cho các tác giả nhiều cách thức khác nhau khi tiếp cận hiện thực và thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình. Đồng thời sự phong phú về điểm nhìn cũng là điều kiện quan trọng để hình thành giọng điệu . Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật Từ giọng điệu chủ âm là ngợi ca trong văn xuôi giai đoạn chiến tranh, văn xuôi sau năm 1975 có sự đa dạng, phong phú hơn trong giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, vì thế nhân vật thường bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm ngưỡng, suy nghĩ đấu tranh trong chính bản thân mình. Điều này được thể hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương… Trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng từ sau năm 1975, người đọc nhận thấy sự đan xen của nhiều giọng điệu. Ngay ở một tác giả một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 tác phẩm tính chất đa dạng cũng ngày càng bộc lộ rõ. Nguyễn Minh Châu là trường hợp tiêu biểu về sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Có thể coi Bức tranh là truyện ngắn thể hiện những thay đổi sớm nhất và rõ nhất về giọng điệu trong các sáng tác sau chiến tranh của ông. ở truyện ngắn này, giọng điệu tác giả và giọng điệu của nhân vật nhiều lúc khó mà phân biệt. Sự hoà quyện giọng điệu ấy vang lên trong cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật qua đó ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Cuộc đối thoại khi thì mang giọng điệu mỉa mai giễu cợt thói đạo đức giả của chính nhân vật A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả…Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi[11/127]; khi thì mang giọng tư biện Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần…Anh chỉ là một cá nhân, với cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu khó để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn[11/127]; khi lại đanh thép kết tội mình là đồ dối trá. Những giọng này vừa đan xen, vừa luân chuyển theo những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Nhưng nổi bật và xuyên suốt trong tác phẩm vẫn là một giọng điệu thâm trầm của một tâm hồn đang diễn ra những biến cố dữ dội. Tính chất đa giọng điệu ấy tiếp tục được sử dụng triệt để hơn trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. ở thiên truyện này luôn vang lên nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều cuộc đối thoại đan cài, xen kẽ vào nhau. Tiêu biểu là những đối thoại nội tâm của Quỳ trong những giằng xé trăn trở trong cơn mộng du để tìm đến trong chân lí của cuộc sống. Đó còn là cuộc đối thoại giữa nhân vật người dẫn chuyện với Quỳ, giữa Quỳ và anh ấy, rồi giữa Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu thương cô. Chính tính chất đa giọng điệu đã tạo ra sức gợi mở và tính tranh luận để kiếm tìm chân lí. Đó cũng chính là một trong những biểu hiện của xu hướng dân chủ hoá trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu đầu những năm 80. Khi đi vào cuộc sống của những con người đời thường, tuỳ theo từng kiểu người mà giọng điệu của nhà văn biến đổi linh hoạt cho phù hợp. ở Sắm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 vai, miêu tả sự lố bịch kệch cỡm trong hành động của nhà văn T, Nguyễn Minh Châu chủ yếu sử dụng giọng điệu hài hước. ở Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp là giọng nghiêm nghị, xót xa khi nói đến những sự vô tâm của con người trong cuộc sống. Còn ở Bức tranh và Dấu vết nghề nghiệp lại là giọng điệu trầm tĩnh, day dứt đầy triết lí. Với nhân vật Khúng trong Khách ở quê ra, nhà văn sử dụng giọng điệu suồng sã, đời thường . Sự thay đổi từ một giọng sang đa giọng trong truyện ngắn sau 75 có căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Cuộc sống trong chiến tranh ồn ào náo động nhưng có cái đơn giản của nó còn cuộc sống trong hoà bình lại chất chứa nhiều sóng ngầm gió xoáy Nguyễn Khải bên trong. Đứng trước những vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ đòi hỏi nhà văn phải có những cách tiếp cận mới, những cách giải quyết mới khác với thời chiến. Trở về với đời thường để dẫn người đọc thâm nhập vào cái bên trong đầy bí ẩn, chứa đựng cái bản ngã của mỗi người trong những mặt đối lập, phức hợp trong tính cách của nó, các tác giả hầu hết đã thay đổi giọng điệu trần thuật và có bước tiến mới trong tổ chức giọng điệu trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 PHẦN KẾT LUẬN 1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng, sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. Sự cách tân thể loại này bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người đến phương thức thể hiện, từ chức năng của văn học đến tư cách người nghệ sĩ, từ phương diện tư tưởng đến phương diện thi pháp. Tuy nhiên, những sự thay đổi đó mới chỉ là những dấu hiệu tiềm ẩn, chưa định hình rõ ràng, với những thể nghiệm, những bước dò tìm để chuẩn bị cho quá trình đổi mới sẽ diễn ra mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Trong hướng đi mới này, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… như là khúc dạo đầu cho truyện ngắn nói riêng và cũng là cho cả một giai đoạn văn học mới. Tiếp sau họ xuất hiện một lớp nhà văn trẻ như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Minh Thư, Hồ Anh Thái… Họ sẽ là lực lượng chính đưa văn xuôi Việt Nam đổi mới sau 1986 chính thức lên đường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 Tất cả những dấu hiệu đổi mới trong các truyện ngắn mà luận văn khảo sát có thể xem như là những mũi khoan thử nghiệm của một hướng tìm tòi, đổi mới ban đầu của thể loại nằm trong quy luật vận động, phát triển không ngừng của nền văn học Việt Nam hiện đại trong sự giao lưu và tiếp xúc với văn học thế giới. Các sáng tác ấy chưa hẳn đã đạt đến chiều sâu của nhận thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật nhưng bước đầu có tác động khá mạnh mẽ đến tư duy sáng tạo của các nhà văn cũng như tâm lí tiếp nhận của bạn đọc. 2. Một trong những phương diện có nhiều dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng ở giai đoạn sau chiến tranh là phương diện đề tài. Đề tài chiến tranh tiếp tục là mảnh đất giàu tiềm năng cho các cây bút khai vỡ. Tuy nhiên khi đi vào đề tài này thấy sự trăn trở, tìm tòi những cách tiếp cận mới. Phần lớn các sáng tác về đề tài này chỉ lấy bối cảnh chiến tranh làm cái nền để bộc lộ những phẩm chất anh dũng, nhân văn của con người. Các tác giả đã cố gắng tạo ra sự hài hòa khi thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến tranh với tinh thần nhân bản của con người và tinh thần chiến đấu của dân tộc. Mặt khác, sự chú ý của các cây bút nghiêng về khai thác những hậu quả của chiến tranh, những sự lầm lạc phản bội, những cái giá phải trả cho chiến thắng. ở đó, con người cá nhân được thể hiện một cách sinh động, toàn vẹn, sâu sắc. Nhờ vậy, nhiều truyện ngắn giai đoạn này đã bộc lộ những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, góp phần làm cân bằng trở lại cách nhìn nhận con người trong văn xuôi thời kì chiến tranh. Cùng với đề tài chiến tranh là sự xuất hiện của đề tài thế sự, đời tư. Từ sau năm 1980 trở đi đây là đề tài giữ vai trò trung tâm của nền văn học. Truyện ngắn sau chiến tranh đã tạo được những hiệu quả cao khi đi vào một cảnh đời, một tâm trạng trong những tình huống tiêu biểu của cuộc sống thường nhật. Với ý thức nhạy bén và sự gắn bó với cuộc sống, các nhà văn đã xới lên những vấn đề của cuộc sống đương đại để vừa rung một hồi chuông cảnh tỉnh vừa khẳng định niềm tin vào con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 Trong giai đoạn chiến tranh, nền văn học gắn với cảm húng sử thi, với âm điệu ngợi ca và niềm lạc quan cách mạng. Sau khi chiến tranh kết thúc thấy rõ sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Trong những truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 không chỉ có một giọng là ngợi ca mà là sự đan cài của nhiều nguồn cảm hứng cảm hứng đạo đức, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán… Nhưng tất cả đều mang cảm hứng nhân văn về số phận con người cá nhân. 3. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 ngày càng xa đần lối kể lể dài dòng với những biến cố dữ dội mà ngắn gọn hơn, cô đúc hơn trong phương thức biểu hiện. Vai trò của cốt truyện chặt chẽ gay cấn có xu hướng nhường chỗ cho những cốt truyện tâm lí. Truyện ngắn có sức khái quát cao hơn vì đi vào chiều sâu thế giới bên trong tâm hồn con người để bộc lộ quá trình tự nhận thức. Đó là biểu hiện cho sự nhận thức về con người đã đạt đến một tư duy mới, gần với bản chất con người hơn. Đó cũng là kết quả của sự phối hợp của nhiều điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn của các nhân vật thường đan cài vào nhau làm nổi bật những chân dung, tính cách, số phận nhân vật trong chiều sâu triết lí. Cũng chính vì thế kiểu nhân vật tự nhận thức, nhân vật tính cách, số phận được nhiều nhà văn chú ý lựa chọn. Truyện ngắn cũng đang mở ra những con đường giao tiếp cởi mở hơn với độc giả. Nhà văn không phải là người độc tôn chân lí phán truyền mà tăng cường yếu tố đối thoại với người đọc. Điều đó có thể nhận thấy qua những cách kết thúc mở, những sự phức hợp của giọng điệu. Mười năm truyện ngắn 1975- 1985 là thời gian chuẩn bị tích cực cho sự định hình những nét mới, góp phần quan trọng làm nên một dòng chảy liền mạch cho văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Tài liệu tham khảo 1. Tạ Duy Anh 2002, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Vân Anh 1985, Hoa xương rồng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 3. Vũ Tuấn Anh 1995, “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-19. 4. Vũ Tuấn Anh 2001, Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân 1984, Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới. Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân 1986, “Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua”, Tạp chí Văn học, 1. 7. Nguyễn Thị Bình 1996, Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét lớn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học Sư phạm I, Hà Nội. 8. Bốn mươi lăm truyện ngắn 1975-1985 1985, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 9. Nguyễn Minh Châu 1983, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Tập tuyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Châu 1985, Bến quê Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Châu 2006, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Có một đêm như thế 1981 Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1981, Nxb Văn nghệ quân đội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 13. Cơ sở lí luận văn học 1985, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 2. 14. Trần Cương 1986, “Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, Tạp chí Văn học, 3. 15. Phan Cự Đệ 1986, “Mấy vấn đề lí luận của văn học hiện nay”, Tạp chí văn học, 5. 16. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 18. Trần Thanh Địch 1985, Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Trung Trung Đỉnh 1986, Đêm nguyệt thực Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 20. Hà Minh Đức Chủ biên 2000, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Tái bản lần thứ 6 21. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình 1995, Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau cách mạng tháng tám đến nay, Hà Nội. 22. Bùi Hiển 1981, Nằm vạ Tập truyện ngắn, Nxb văn học, Hà Nội. 23. Bùi Hiển 1985, Tâm tưởng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Dương Thu Hương 1981, Những bông bần li Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 25. Lê Thị Hường 1995, Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1975 -1995, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 26. Nguyễn Văn Kha 2006, Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 27. Nguyễn Khải1982, Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 28. Phùng Ngọc Kiếm 2002, Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 29. Nguyễn Kiên 1986, Đáy nước Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 30. Duy Khán 1985, Tuổi thơ im lặng Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 31. Ma Văn kháng 1986, Ngày đẹp trời Tập truyện,Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Ma Văn Kháng1985, Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 33. Lê Minh Khuê 1981, Đoạn kết Tập truyện, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 34. Lê Minh Khuê 1986, Một chiều xa thành phố Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 35. Tôn Phương Lan 2002, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tái bản lần thứ nhất 36. Tôn Phương Lan 2005, Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa h?c xã h?i, Hà Nội. 37. Phong Lê 1994, Văn học và công cuộc đổi mới Tiểu luận và phê bình, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 38. Phong Lê 1983, “Văn học những năm 80”, Tạp chí Văn học, 3. 39. Nguyễn Văn Long 2003, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn Đồng chủ biên 2006. Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 41. Thái Bá Lợi 1982, Vùng chân hòn tàu Tập truyện, Nxb văn học, Hà Nội. 42. Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt nam hiện nay, Bộ Văn hoá thông tin- Thể thao, Hà Nội. 43. Một thời đại văn học mới Tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 44. Mười bốn truyện ngắn Nguyễn Khải, Phạm Hoa, Nhật Tuấn 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 45. Mười bảy truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1996, Nxb Đại học quốc gia ,Hà Nội. 47. Bảo Ninh 1987, Trại bảy chú lùn Tập truyện, Nxb Hà Nội. 48. Vương Trí Nhàn 1980, Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 49. Trần Thị Mai Nhi 1994, Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki 1998, Nxb Giáo dục, Hà Nội.Tái bản lần 1 51. Nguyên Ngọc, “Văn xuôi sau năm 1975. Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí Văn học, 4. 52. Phạm Xuân Nguyên 1994, “Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay”, Tạp chí Văn học, 2, trang 26-31. 53. Huỳnh Như Phương 1991, “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-17. 54. Nguyễn Phương Tân, Nguyễn Thị Hạnh tuyển chọn 2002, Truyện ngắn xuất sắc về chiến tranh, Nxb hội nhà văn, Hà Nội. 55. Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 56. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 57. Nguyễn Quang Thân 1994, 15 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội . 58. Thời gian Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1983 - 1984 1985, Nxb Tổng cục chính trị, Hà Nội. 59. Thời gian và trang sách Phê bình tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Xuân Thiều 1985, Gió từ miền cát tập truyện, Nxb tác phẩm mới, Hà Nội. 61. Tinh tuyển Văn học Việt Nam Giai đoạn 1945-2000 2004, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 8. 62. Bích Thu 1995, “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống môtip chủ đề”, Tạp chí Văn học, 4. 63. Bích Thu 1996, “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học, 9, trang 32-36. 64. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm và lời bình 2007, Nxb Văn học, Hà Nội. 65. Truyện ngắn Việt nam 1945-1985 1985, Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Truyện ngắn hay Việt Nam thời kì đổi mới 2000, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 67. Truyện ngắn Việt nam thế kỷ XX 2002, Nxb Kim đồng, Hà Nội, 3. 68. Trang giấy trước đèn Phê bình - tiểu luận của Nguyễn Minh Châu 1994, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Nguyễn Mạnh Tuấn 1985, Hành khúc ngày và đêm Tập truyện ngắn, Nxb Lao động, Hà Nội. 70. Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải thưởng Hội nhà văn 1951- 1997. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 71. Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc Thế kỷ 19-20 1996, Nxb Văn học, Hà nội. 72. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề con người trong văn học” in trong Lí luận văn học, 1990, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 73. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề văn học phản ánh hiện thực” in trong Lí luận văn học, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 74. Võ Văn Trực 1993, Chuyện làng ngày ấy, Nxb Lao động, Hà Nội. 75. Từ điển thuật ngữ văn học 1992, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử 1986, “Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy và hình tượng con người trong văn học ta thập kỷ qua”, Tạp chí Văn học, 6. 77. Trần Đình Sử 1991, “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu văn học Xô Viết”, Tạp chí Văn học, 1. 78. Trần Đình Sử 1999, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử. “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong văn học Xô Viết” 1991, Tạp chí Văn học , 1. 80. Văn học Việt Nam 1975-1985-Tác phẩm và dư luận 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 81. Việt Nam nửa thế kỷ văn học Kỷ yếu hội thảo 26/9/1995 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 82. Văn học trong giai đoạn cách mạng mới 1984, Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà văn, Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu này
truyện ngắn việt nam sau 1975