truyện ngắn alice munro
Alice Munro "The View from Castle Rock" The New Yorker: Kevin Moffett "Tattooizm" Tin House: Thomas McGuane "Cowboy" The New Yorker: Jack Livings "The Dog" The Paris Review: Yiyun Li "After a Life" Zoetrope: Aleksandar Hemon "The Conductor" The New Yorker: Mary Gaitskill "Today I'm Yours" Zoetrope: Nathan Englander "How We Avenged the Blums
Các truyện ngắn của bà Alice Ann Munro thường được dàn dựng tại các thành phố nhỏ, tại đây sự phấn đấu thường mang lại các kết quả là sự liên hệ bị căng thẳng và các xung đột đạo đức, các vấn đề này bắt nguồn từ các khác biệt thế
Alice Munro (1931-) là nhà văn viết truyện ngắn người Canada. Bà được trao giải Man Booker Quốc tế năm 2009 và giải Nobel Văn học năm 2013. Truyện ngắn "What Is Remembered" được đăng lần đầu trên tạp chí The New Yorker (February , 2001) 196-207, và in, với một số khác biệt nhỏ, trong tập…
Truyện [Twilight Đồng Nhân] Bạn Trên Mạng Là Ma Cà Rồng - Chương 21. Hiện menu doc truyen. Alice chỉ mập mờ nói rằng Volturi không phải là nơi nên đến, vì vậy Atlas hiểu được có nguy hiểm trong chuyện này, nhưng Carlisle cười nói không có việc gì chỉ cần không bị Aro
Tuyển tập "Trốn chạy" đã góp thêm một giải Giller năm 2004 vào gia tài giải thưởng vốn đã rất dày dặn của bậc thầy truyện ngắn xứ sở lá phong đỏ, Alice Munro. *** Đôi nét về tác giả. ALICE ANN MUNRO sinh năm 1931 tại bang Ontario, Canada.
materi ips kelas 4 sd semester 1. Khôn thích ồn ào và thể hiện nơi đám đông, Nobel Văn học 2013 trốn trong những quan sát, suy tư, trải nghiệm riêng về cuộc sống xung quanh để viết nên tác phẩm. Ấn tượng đầu tiên mà Alice Munro, nữ nhà văn 82 tuổi giành giải Nobel 2013, để lại cho người khác là nét đôn hậu, gần gũi với mái đầu bạc phơ, ánh mắt và nụ cười rạng rỡ ấm áp. Sinh ra và lớn lên tại thị trấn Wingham, Ontario, Canada, miền quê nhỏ bé này đã lặng lẽ đi vào đời sống tinh thần của Alice Munro, sau này là bối cảnh xuất hiện trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn của bà dưới những cái tên khác nhau như Jubilee, Hanratty... Alice Munro là con cả trong gia đình có ba người con. Mẹ bà là một giáo viên và cha là nông dân. Từ năm 10 tuổi, Munro đã đắm mình trong những cuốn sách và nuôi dưỡng giấc mộng văn chương. Sau khi rời trường phổ thông, bà giành được học bổng nghiên cứu báo chí và tiếng Anh tại Đại học Western Ontario, nơi đây, bà bán máu, làm bồi bàn, cuốn thuốc lá, thủ thư cùng nhiều công việc khác để kiếm tiền ăn học. Năm 1951, Munro bất ngờ nghỉ học để kết hôn với người bạn cùng trường James Munro. Vài năm sau đó, Alice cùng chồng chuyển tới sống ở Victoria, British Columbia, dồn vốn mở một hiệu sách có tên Munro's Books. Thường xuyên tiếp xúc sách báo cộng với niềm đam mê có sẵn, Munro vừa bán sách, vừa chăm con, vừa cho ra đời những tác phẩm của riêng mình. Chung sống với nhau được ba mặt con, Munro và chồng chia tay năm 1972. Năm 1976, bà đi bước nữa với nhà nghiên cứu địa lý Gerald Fremlin. Mặc dù vậy, bà vẫn giữ họ của mình theo họ người chồng đầu tiên - Alice Ann Munro. Nhà văn Alice Munro. Ảnh AP. Alice Munro bắt đầu viết truyện từ những năm tháng tuổi teen. Bà xuất bản truyện ngắn đầu tiên năm 1950, khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, tác phẩm có tên "The Dimensions of a Shadow". Năm 1968, khi Munro 37 tuổi, tuyển tập truyện ngắn "Dance of the Happy Shades" ra đời, nhận được sự chú ý lớn trong giới văn chương Canada. "Dance of the Happy Shades" cũng lập tức được trao giải Governor General - giải thưởng văn học lớn của Canada - dành cho lĩnh vực văn học hư cấu. Năm 1971, bà xuất bản tuyển tập truyện ngắn "Lives of Girls and Women", được các nhà phê bình đánh giá là một tiểu thuyết có tính giáo dục lớn. Sau đó, nhiều tuyển tập khác lần lượt ra đời "Something I've Been Meaning to Tell You" 1974, "Who Do You Think You Are?" 1978 - thắng giải Governor General, "The Moons of Jupiter" 1982, "Runaway" 2004 - tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt với tiêu đề "Trốn chạy", "The View from Castle Rock" 2006, "Too Much Happiness" 2009... Tuyển tập "Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage" 2001 của Munro là chất liệu chính cho bộ phim "Away from Her" của đạo diễn Sarah Polley năm 2006. Tổng cộng, Alice Munro đã xuất bản 14 tuyển tập truyện ngắn trong quãng đời viết lách của mình, chưa kể nhiều tác phẩm lẻ khác. Tuyển tập gần đây nhất của bà là "Dear Lifer" phát hành năm 2012. Bà cũng nhận nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Man Booker Quốc tế 2009 và ba giải thưởng Governor General danh giá của Canada. Đầu năm nay, nhà văn 82 tuổi đã thông báo kế hoạch gác bút, rời bỏ công việc văn chương để tận hưởng những năm tháng cuối đời. Từng coi truyện ngắn chỉ là "bài tập" cho tiểu thuyết Ngày 10/10, Alice Munro vượt qua nhiều tên tuổi lớn khác của văn học thế giới để nhận giải Nobel lần thứ 106. Trong lời công bố của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bà được mệnh danh là "bậc thầy của truyện ngắn đương đại". Munro là nữ nhà văn theo đuổi chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Những câu chuyện thường có bối cảnh là những thị trấn nhỏ, nơi tưởng yên bình lặng lẽ nhưng ẩn chứa không ít xung đột, mâu thuẫn, căng thẳng xuất phát từ những khác biệt thế hệ, những va chạm đạo đức, tham vọng sống của con người trong xã hội... Munro cũng quan tâm tới phụ nữ và các cô gái trẻ, những vấn đề mà họ phải đối mặt trong cuộc sống ở những thị trấn nhỏ của bà. Các tác phẩm thời kỳ đầu của Munro thường nêu bật sự khác biệt giữa cuộc sống thời niên thiếu ở Wingham, một thị trấn bảo thủ phía Tây Toronro, cũng như những biến chuyển cuộc sống sau cách mạng xã hội những năm 1960. Trong một cuộc phỏng vấn với AP vào năm 2003, bà nói thời kỳ 1960 là "những năm tháng tuyệt vời". "Tôi sinh ra vào năm 1931, tới lúc đó, tôi cũng đã lớn nhưng không phải quá già. Những phụ nữ như tôi sau một vài năm đã được mặc váy ngắn và nhảy nhót". Có thể thấy, cuộc sống xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến các sáng tác của Munro. Các tác phẩm của Alice Munro. Ảnh Usa. Về văn phong, Alice Munro nổi tiếng với lối kể chuyện tinh tế, khúc chiết. Những chủ đề giản dị, thường thấy trong cuộc sống được thể hiện bằng lối viết dụng công ở chi tiết - dù chỉ miêu tả những câu chuyện hàng ngày, các chi tiết khi qua tay Munro đều tỏa sáng; và sắc nét ở nhân vật. Munro cũng được đánh giá là nhà văn đã "cách mạng hóa" cấu trúc của truyện ngắn - các tác phẩm thường bắt đầu ở một mốc bất ngờ, sau đó kể ngược về sau hoặc dịch chuyển về phía trước trong quỹ đạo thời gian, với kết thúc hết sức khó lường. Alice Munro được đánh giá là một bậc kỳ tài của thể loại truyện ngắn, thậm chí một số nhà phê bình từng gọi bà là Anton Chekov của Canada. Thế nhưng, bản thân Alice Munro từng không xác định mình sẽ gắn bó với thể loại này. "Trong nhiều năm, tôi cứ nghĩ rằng truyện ngắn chỉ là bước thực tập, và tôi sẽ viết tiểu thuyết vào một ngày nào đó. Sau đó tôi phát hiện, truyện ngắn là tất cả những gì tôi có thể làm, và tôi đối diện với nó. Tôi cho rằng những nỗ lực của tôi vào thể loại này đã được đền bù". Dù vậy, truyện ngắn của Munro thường được cho là giống tiểu thuyết hay là những tiểu thuyết thu nhỏ, không chỉ bởi độ dài của chúng mà còn bởi mật độ cuộc sống mà bà "nhét" vào tác phẩm. Kinh ngạc khi biết mình đoạt giải Nobel Thông qua NXB Penguin Random House, Alice Munro chia sẻ, bà rất ngạc nhiên và biết ơn giải thưởng của Viện Hàn Lâm Thụy Điển. "Tôi đặc biệt vui mừng vì chiến thắng này sẽ làm hài lòng nhiều người Canada. Tôi cũng rất hạnh phúc khi giải thưởng sẽ mang lại sự chú ý tới những nhà văn trên đất nước tôi". Thông tin giải Nobel đến với Alice Munro trong tình huống bất ngờ. Bà bỏ lỡ cuộc điện thoại thông báo của Viện Hàn Lâm khi đang tới thăm nhà con gái ở Victoria , British Columbia. Munro sau đó được con gái đánh thức vào lúc 4h sáng để thông báo tin mừng. Vài phút sau khi biết tin, nhận cuộc điện thoại từ Hãng truyền hình Canada, Alice Munro như vẫn còn đang chuếnh choáng "Dường như có điều gì đó thật huy hoàng đang xảy ra nhưng tôi không thể nào mô tả, nó nhiều đến mức tôi không thể nói ra bằng lời". Bà cũng không tin là mình lại được trao giải thưởng năm nay. "Tôi thực sự hy vọng giải thưởng này sẽ khiến mọi người nhìn nhận truyện ngắn như một thể loại nghệ thuật quan trọng, không chỉ là một thứ trò chơi cho tới khi bạn có được một cuốn tiểu thuyết trong tay", Alice Munro nói. Trong truyền thống của Viện Hàn Lâm, giải thưởng thường về tay các tiểu thuyết gia hoặc những nhà thơ mà ít khi chú trọng tới tác giả truyện ngắn - điều đã được dỡ bỏ qua trường hợp Munro năm nay. Alice Munro là nhà văn nữ thứ 13 giành giải Nobel Văn học. Bà cũng là người Canada đầu tiên nhận giải thưởng này. Trước đó, tác giả Saul Bellow sinh ở Canada cũng được trao giải năm 1976 nhưng đã chuyển tới sống ở Mỹ từ năm 1941. Hoàng Anh
Quay lại trang chủ / Phát thanh / Tạp chí văn hóa 2013, lần đầu tiên giải Nobel Văn học được trao tặng cho một nhà văn Canada. Cũng lần đầu tiên Viện Hàn lâm Thụy Điển vinh danh một tác giả chuyên viết truyện ngắn Alice Munro, bậc thầy của truyện ngắn đương đại ». Dưới ngòi bút của Alice Munro, cuộc sống tẻ nhạt của những con người bình thường, những thân phận hèn mọn, đã trở nên sống động thần kỳ. Văn phong chân thực và giản dị của bà là chìa khóa đưa Munro đến Viện Hàn lâm Thụy Điển. Nhà văn Canada Alice Munro giành giải Nobel Văn học 2013. Ảnh chụp trong một sự kiện tại Toronto, Canada 2007. REUTERS/Mike Cassese/Files Trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho ban Việt Ngữ RFI, nhà văn Nguyễn Đức Tường từ bang Quebec cho biết thêm về vị trí của Nữ hoàng truyện ngắn, Alice Munro » trên văn đàn Canada, về văn phong của bà và nhất là vì sao Alice Munro, sau hơn một nửa thế kỷ cầm bút, mỗi tác phẩm của bà đều rất được chờ đợi. Bà được mệnh danh là một Tchekkov của Canada. Nhà văn Nguyễn Đức Tường nguyên là giáo sư Toán và Vật Lý tại Mỹ và Canada, nhưng đã đã có nhiều duyên nợ với văn chương. Ông từng là ban tập viên của tạp chí Thế Kỷ ủ giấc mơ viết văn từ bé, truyện ngắn đầu tay The Dimensions of a Shadow – Kích thước của một chiếc bóng » của bà được xuất bản năm 1950. Nhưng phải đợi đến cuối thập niên 1960 Alice Munro mới được độc giả biêt đến một cách rộng rãi qua Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc ». Những năm gần đây, chiếu cao nhất trên văn đàn Canada được giành cho hai nhà văn nữ nặng ký Magaret Atwood và Alice Munro. Hàng năm, cứ đến “mùa” Nobel là các tổ chức truyền thông Canada lại thi nhau tiên đoán ai sẽ được giải Nobel văn một góc đài là Magaret, già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút với trên 50 cuốn sách/truyện đã xuất bản và mỗi lần ra mắt sách là một sự kiện – event. Góc bên kia là Alice, bà Hoàng truyện ngắn, cũng già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút nhưng có vẻ nhẹ ký hơn, chỉ mới có 14 tập truyện đã xuất bản nhưng xuất hiện thường xuyên trên những tạp chí như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review... và được nhà văn Mỹ Jonathan Franzen ca tụnghết mình trên The New York Times nhân dịp tập truyện Runaway của bà được giải Giller 2004 lần thứ nhì, một giải văn học có hạng của Canada, kêu gọi đồng bào nên đọc này có lẽ rất quan trọng vì 10 năm trước, năm 1994, Munro xuất bản Open Secrets, bà được đề nghị cho giải thưởng văn học uy tín nhất của Canada lần thứ 5, Giải Toàn quyền Canada Governor General's Award. Nhân dịp này, tạp chí The Paris Review cũng đã gửi hai phóng viên đến nhà bà ở Clinton để phỏng vấn cho một bài viết về Nghệ thuật Hư này khác, ngày 10/10/2013, Viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo Giải thưởng Văn học 2013 được trao về tay một nhà văn của Canada, Alice Munro, “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”! Đây là lần đầu tiên giải văn học này vinh danh một nhà văn chỉ viết truyện Munro là nhà văn nữ thứ 13 và là người phụ nữ Canada đầu tiên đã đoạt giải Nobel Văn học. Đúng ra, năm 1976 Saul Bellow, một tác giả sinh đẻ ở Lachine Quebec, cũng đã đoạt giải Nobel, nhưng vì năm lên 9 tuổi, Bellow theo gia đình sang Chicago rồi sau đó lấy quốc tịch Hoa Kỳ, nên trước Alice Munro, Canada vẫn chưa có ai được trao giải Munro, tên thật là Alice Ann Laidlaw, sinh ngày 10/07/1931 tại Wingham, một thị trấn nhỏ miền tây-nam Ontario, Canada. Năm 1949, cô được học bổng hai năm tại Đại học Western Ontario, chuyên về tiếng Anh và báo chí. Trong thời gian này cô cũng đồng thời phải làm đủ mọi thứ nghề hầu bàn, hái thuốc lá hay phụ việc thư viện, để phụ thêm học 1951, cô rời đại học để kết hôn với James Munro, một sinh viên cùng trường. Họ dọn nhà đi Vancouver, British Columbia, nơi James có việc làm với Eaton, một nhà hàng bách hóa lớn. Năm 1963, hai vợ chồng chuyển đến Victoria, mở tiệm sách Munro's Books. Ngày nay vẫn còn hoạt động. Họ có bốn cô con gái, nhưng một người đã qua đời và James ly dị vào năm 1972. Năm 1973 Munro trở lại Đại học Western Ontario, bây giờ với tư cách một nhà văn nội trú. Năm 1976, Alice kết hôn với Gerald Fremlin, một bạn cũ thời còn là sinh viên. Hai vợ chồng dọn về Clinton, cách nhà thời thơ ấu của bà ở Wingham chừng nửa giờ lái xe và ở đây, Fremlin đã qua đời năm 2013 ở tuổi 88. Dance of the Happy Shades » khúc quanh định mệnh Munro có ý định viết văn từ năm 12 tuổi, nhưng xuất bản tương đối muộn. Gần đây người ta phát hiện truyện ngắn đầu tiên, Kích thước của một Chiếc Bóng, The Dimensions of a Shadow, xuất bản năm 1950, đăng trong tạp chí đại học Folio, được tái bản năm 2011 trong tạp chí Her Royal Majesty số 12. Đây là lần đầu tiên Munro ở tuổi mười tám được phổ biến rộng rãi. Kích thước của một Chiếc Bóng kể truyện một cô giáo mới nhậm chức trong thị trấn, cô đơn đi bộ về nhà vào ngày cuối cùng của niên học, một mình với trí tưởng tượng và nỗi sợ hãi của mình. Giọng văn đượm chút irony như thể báo hiệu những gì sẽ đến trong tương 1968, ở tuổi 37, Alice Munro xuất bản tập truyện đầu tay, Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc. Với tác phẩm này Munro đoạt Giải Toàn quyền Canada, giải thưởng văn học hàng năm quan trọng nhất; bà sẽ còn đoạt giải này thêm hai lần of the Happy Shades cũng là tên một truyện ngắn trong tập truyện, lấy từ tiêu đề của bản dịch tiếng Anh của ba-lê/nhạc kịch Orpheus & Eurydice của Glück khi được trình diễn tại London lần đầu tiên. Vì liên hệ thần thoại này, chữ Shade ở đây cũng có thể chỉ một bóng ma, một cõi u minh nào đó – the Realm of the thần thoại Hy Lạp, đây là một chuyện tình rất thương tâm; Orpheus là một thi nhạc sĩ, tiếng nhạc của anh quyến rũ được thú hoang hay sỏi đá. Orpheus đi cứu vợ, Eurydice, từ thế giới bên kia; Hades, vua của cõi U Minh nhỏ lệ trước lời ca của Orpheus và cho Eurydice về dương thế, nhưng vì Orpheus phạm một lời nguyền nên vợ chết một lần nữa. Buồn bã trở về, Orpheus chết dưới bàn tay của kẻ thù không bị cảm hóa bởi âm nhạc thần thánh của mình, đầu anh ta trôi ra biển vẫn không ngừng ca hát. Trong vở nhạc kịch, Orpheus đau khổ, định tự tử, nhưng thần Tình yêu ngăn cản, cứu sống vợ để cho cả hai vợ chồng cùng về dương thế, happy điệu của những chiếc bóng hạnh phúc kể chuyện một bà giáo già độc thân và buổi độc tấu dương cầm hàng năm của học trò của bà. Học trò của bà gồm ít nhất hai thế hệ, cô bé kể truyện và mẹ của cô. Bà giáo ngày càng già, đời sống vật chất của bà ngày càng eo hẹp, chỉ có buổi độc tấu dương cầm là cố định, được sửa soạn với cùng một quan tâm vô tận và do đấy, vào buổi chiều tháng Sáu nóng bức này, trở nên có vẻ như không bao giờ ngừng cho những bà mẹ phải đi kèm con. Bà giáo già hoàn toàn vô tư trước cảnh những bà mẹ ngồi bồn chồn, chịu trận chờ cho đến hết. Nhưng lần này khác, khi tưởng như đã xong thì đột nhiên xuất hiện một đám trẻ con cùng có một chút gì khác lạ, khiếm khuyết, chừng mươi đứa, cũng là học trò của bà. Tài nghệ dương cầm của chúng trung bình như mọi trẻ khác cho đến khi bà giới thiệu đứa trẻ cuối cùng, một cô bé tóc bạch kim. Cô ngồi trước dương cầm, vụng về, đầu hơi cúi xuống rồi tiếng nhạc của cô bắt đầu lơ lửng trong không gian, bay qua cửa sổ ra ngoài đường phố mùa hè hừng hực nóng. Mọi người đã quen với những buổi biểu diễn dương cầm như thế này nhưng không ai chờ đợi được nghe âm nhạc. Có lẽ đến tận lúc cuối cùng của cuộc đời, bà đã tìm được một người để dậy Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc làm tiêu đề của toàn tập truyện, chắc hẳn Munro không đơn thuần chỉ chọn cái tên bắt mắt để bán sách mà phải rất đắc ý với câu chuyện. Tôi đọc ở đâu đó, Munro nghiên cứu rất cẩn thận khi viết lách, liên hệ giữa thần thoại Hy Lạp và bà giáo dương cầm già tất không phải chuyện tình cờ. Và như vậy những ngụ ý, ẩn dụ, ám chỉ... có thể có, nằm đâu đó trong truyện; xin để độc giả, qua thẩm định cá nhân, mỗi người một cách vui thích làm cuộc thám hiểm cho riêng Munro đã xuất bản tất cả 14 tập truyện; được Giải Toàn quyền Canada Governor General's Award 3 lần Dance of the Happy Shades 1968, Who Do You Think You Are? 1978 và The Progress of Love 1986; Giải Giller2 lần The Love of a Good Woman 1998 và Runaway 2004. Năm 2009 Munro được Giải thưởng Quốc tế Man Booker Man Booker International Prize cho toàn bộ tác phẩm, rồi tất nhiên, năm 2013,Giải Nobel Văn phong chân thực, giản dị của Munro Alice Munro được giải Nobel! Tất nhiên dân Canada vui mừng và hãnh diện, nhưng tình cảm này không nhất quán. Đã từ lâu, Alice Munro trở thành một tác giả tiếng tăm quốc tế về các hư cấu ngắn, không còn bắt buộc phải viết cho thị trường của các tác giả đang tìm cách đi lên ở trong nước. Đa số những độc giả truyện ngắn khám phá ra hư cấu của Munro lần đầu tiên trong các tạp chí bóng mượt của Hoa Kỳ như tờ The New Yorker và Atlantic Monthly. Nhà xuất bản của Munro là Random House, trụ sở ở Manhattan. Vì dân số Hoa Kỳ đông gấp mười lần dân số Canada tất nhiên số độc giả cũng đông, nhưng cốt lõi, Munro vẫn là một tác giả miệt vườn một thời tôi sống ở vùng hồ Huron, một trong năm Đại Hồ của Canada chụm lại với nhau, hồ bát ngát, gió thường tung sóng cao như biển. Một căn nhà gạch đỏ gọn ghẽ ở cuối đường, đánh dấu ranh giới của thị trấn, bên kia là cánh đồng chạy thoải xuống sông Maitland, có thể như Munro đã tả căn nhà thời thơ ấu, những cây ngô đã khô xào xạc trong cơn gió nhẹ, đây đó thêm mấy hàng cây phong. Lạ hơn là đôi khi giữa cánh đồng đột nhiên mọc lên một tiệm ăn rất sang, French cuisine; có một tiệm ở bên cạnh suối nước, có cả đập nước để sinh điện, điện còn thừa bán cho công ty điện lực Ontario. Tôi thường đi thử những tiệm ăn này mỗi cuối tuần, tôi hỏi mấy chốc họ vỡ nợ. Bạn đồng hành trả lời họ không trông đợi ở mình, họ chờ mấy fat cats có cottages ở dọc ven là xứ sở của Munro và cũng là sân chơi của những ông bự béo hay béo bự, phần lớn đến từ Toronto, hơn hai giờ lái xe; họ không là mẫu cho nhân vật của Munro. Mặc French cuisine hay Stratford Festival không xa, hàng năm trình diễn những vở kịch cổ điển hay đương đại, từ tháng Tư đến tháng Mười, thu hút khách thập phương, bầu không khí trong truyện ngắn của Munro luôn luôn là bầu không khí tỉnh lẻ nếu không nói miệt vật của Munro là những người bình thường của vùng này, ở quanh Wingham, nơi Munro sinh ra và lớn lên hay Clinton, nơi bà sống sau này. Ở đây, khi ánh sáng và bóng tối bắt đầu trộn lẫn trên cánh đồng đã cầy lên chờ mùa đông sắp đến, có thể họ lén lút làm tình trong các ruộng ngô, hay là những con người hung dữ nóng nẩy chạy rượu lậu, cuộc sống và hy vọng có thể bị nghiền nát trong khoảnh khắc một cuộc đối thoại. Văn phong của Munro chân thực, giản dị – như Wingham, nhưng rộn ràng với những cảm xúc chính xác, đã được giảm nhẹ đi. Dẫu vậy, nhiều khi hãy còn quá nhạy cảm cho một số người. Như truyện Giờ Chết The Time of Death. Đến ba thế hệ của một gia đình hãy còn hằn học với Munro chỉ vì chuyện một ông chú của họ qua đời, bỏng nước sôi khi mới được 18 tháng, giống như đứa bé Benny trong truyện. Như đã nói ở trên, Munro rất thận trọng làm nghiên cứu. Trong thư khố của tuần báo địa phương, có đến hai trường hợp đứa bé bị chết bỏng nước sôi; câu chuyện xẩy ra năm 1877 đăng trên tờ Huron Expositor giống truyện của Munro một cách kỳ lạ. Tuy vậy, theo một sử gia địa phương, “Khi tôi đọc Alice Munro, tôi không thể đọc bà ta như những người khác, tôi nhìn thấy rất nhiều Wingham ở trong đó, mặc dù tôi biết đó là truyện hư cấu.” Gần đây Alice Munro nói có ý định viết tiểu luận và đã viết một vài bài, tôi có đọc một bài bà viết nhưng bây giờ không nhớ ở đâu; còn lại tất cả các tác phẩm của bà đều là truyện ngắn, vậy thì câu trả lời dễ, gọn và an toàn nhất là Alice Munro được giải Nobel là vì bà là một “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”. Tôi cũng có thể nói một cách rất lương thiện là đó cũng là quan điểm của tôi. Munro viết về đời sống thôn dã vùng hạt Huron cùng những người sống trong vùng chính mình, kinh nghiệm của mình khi lớn lên, rồi gia đình và những người chung quanh. Thật sự, toàn là những người bình thường, không có gì đặc sắc, sinh hoạt đời thường lặp đi lặp lại, tẻ nhạt. Nhưng viết về con người bình thường trong hoàn cảnh bình thường, sống đời sống bình thường không bao giờ dễ; chỉ dưới ngòi bút thần diệu của một nhà văn bực thầy ta mới có thể thấy được những con người, hoàn cảnh hay đời sống đó không những có thể tin được mà còn sống động một cách thần kỳ. Đọc đi đọc lại vài truyện nhiều lần, tôi nhận thấy truyện của Munro mở ra từ từ dễ dàng nhưng cấu trúc hết sức tinh tế và chính xác, một cử chỉ nhỏ bất ngờ của nhân vật thường làm thay đổi sắc thái của cả câu chuyện. Munro kể lúc ban đầu viết truyện ngắn chỉ là tạm thời, sửa soạn cho truyện dài về sau. Rồi bà viết truyện dài, nhưng không bao giờ vừa ý nên lại cắt ra thành những truyện ngắn. Nhưng những truyện ngắn chừng mươi, mười lăm trang này chi tiết cô đọng như những truyện dài 200 trang. Theo biên tập viên của bà ở The New Yorker, “Truyện ngắn của Munro dường như rất đầy đủ, có tất cả các tính chất của một cuốn tiểu thuyết.” Và thêm,“Bạn cắt một câu tưởng như thừa ở đầu truyện để rồi về sau nhận ra câu đó là cần thiết.” Ngườiđi sau phải học người đi trước, nếu không ta sẽ tiếp tục phát minh lại cái bánh xe và văn minh của nhân loại sẽ đứng yên một chỗ; Munro tất nhiên phải học những nhà văn đi trước nhưng văn phong của Munro có nét vẻ riêng của Munro. Có người nói Munro là “Chekhov của chúng tôi.” Nhưng tại sao phải như vậy? Tại sao Munro không thể chỉ đơn thuần là Munro?“Boys and Girls” và thân phận Một truyện của Munro mà tôi đặc biệt ưa thích là Trai và Gái Boys and Girls. Văn viết uyển chuyển. Tâm lý sâu sắc. Diễn biến tế nhị. “My father was a fox farmer.” Munro vào truyện, rõ ràng, chính xác, không những không che dấu nguồn gốc khiêm nhượng, miệt vườn của mình mà còn như có vẻ ngạo mạn, thách Munro thường dùng cái thế giới mà bà biết rõ nhất, miền tây-nam Ontario, làm nền trong các tác phẩm. Trai và Gái là truyện xẩy ra ở vùng này trong đó Munro kể lại những năm thơ ấu của mình vào thời kỳ kinh tế suy gia đình sống trong một trang trại nuôi cáo, gồm cha làm nghề nuôi cáo, mẹ nội trợ và hai chị em, cô chị 11 tuổi là người kể truyện. Truyện tả sự trưởng thành của hai chị em, nhất là cô chị, với tất cả những bối rối gai góc của nó. Hai chị em thường phụ giúp cha, thằng bé em lóng ngóng làm việc lặt vặt nơi chuồng cáo, còn cô là người quán xuyến hết mọi việc. Cô cảm thấy vai trò của mình trong trang trại được đảm bảo; cha cô có lần nói chuyện với khách, chỉ cô giới thiệu, “Tay đàn ông phụ việc tôi mới thuê,” khiến cô đỏ mặt vì vui một bản nhạc gồm hai giọng chạy theo nhau, quyện lấy nhau. Hai cuộc đời triển khai theo nhịp sống của trang trại; phụ giúp cha trông nom, cho cáo ăn uống rồi giết cáo để lấy da. Cuộc đời tưởng như không có gì thay đổi, nhưng mùa đông này cô nhận ra rằng mẹ cô không muốn cô cả ngày lúi húi dưới chuồng cáo mà muốn cô giúp bà với việc trong nhà. Một trong những nét nổi bật nhất của câu chuyện là sự tương phản gợi ra bởi ý tưởng “cậu bé” và “cô gái”, luôn luôn phản ảnh trong mọi khía cạnh của thế giới người kể truyện. Truyện tiếp tục kể chi tiết về thời gian trong cuộc sống của cô khi cô qua khỏi thời thơ ấu, bỏ lại đằng sau sự tự do, nhận ra rằng mình là một “cô gái” và cuối cùng, một phụ nữ. Đứa trẻ bắt đầu hiểu rõ phân loại xã hội đòi hỏi những tác động nghiêm trọng. Do đó trở thành một “cô gái” trên đường đến phái nữ là một thời gian đầy khó khăn cho nhân vật chính bởi vì cô quan niệm phụ nữ thuộc giai cấp thấp hơn “đỏ mặt vì vui sướng” chỉ vì được bố gọi là tay đàn ông. Ban đầu, cô cố gắng chống lại nỗ lực của cha mẹ cố đào tạo cho cô những sở thích, thói quen, hành vi và công việc của một phụ nữ. Tuy nhiên, kháng cự này vô ích. Cô gái kết thúc câu chuyện rõ ràng là xã hội đã dành riêng một chỗ đứng cho cô, một cô gái; một cái gì đó làm cô lo sợ, ngại dù Munro không là người quan tâm đến nữ quyền một cách rõ ràng và thuyết phục, câu chuyện có thể được xem như một dụ ngôn, chứng minh hùng hồn công việc người phụ nữ cần làm để thay đổi vị trí xã hội của đời trôi đi, cho đến một hôm cô biết cha cô có ý định giết một con ngựa để nuôi cáo; không suy tính trước, cô thả con ngựa. Và đây cũng là lần đầu tiên trong đời cô không vâng lời cha, không những không đóng cửa trang trại mà còn mở rộng cho ngựa chạy ra. Thằng bé em đi theo bố suốt buổi để đuổi bắt rồi giết ngựa, trở về, quần áo dính máu, nó đã nghiễm nhiên chiếm chỗ của cô; không những thế nó còn mách lẻo với bố là cô đã giúp cho ngựa không ngạc nhiên về việc bố bắt lại được con ngựa nhưng ngạc nhiên thấy ông không tức giận và không trừng phạt cô; như cam chịu, đôi chút cởi mở, ông nói, “Nó chỉ là một cô gái.” Ngạc nhiên hơn nữa là phản ứng của cô gái trước câu nói của bố “Tôi không phản đối điều đó, ngay tự trong thâm tâm tôi. Có lẽ đó là sự thật.” Bữa cơm gia đình tối hôm đó là một bức tranh đẹp tuyệt vời.“I didn’t protest that, even in my heart. Maybe it was true.” Chấm hết, một ngày không tốt mấy cho nữ quyền.
When a writer is universally beloved and highly prolific, it can be hard for the uninitiated to know where to start. It’s even more difficult when the writer in question is a master of the short story as opposed to the novel, because at least novels lend themselves to the kind of summary that might let you know if you’ll be interested in the book—it’s much harder to describe a story collection. Such is the case for many with Alice Munro people know they should read her, but have no idea how to break into her oeuvre. Well, if you’re one of those people, you’re in luck. Munro turns 87 tomorrow, which is as good a reason as any though let’s be clear no reason is required to finally delve into some of her work. So if you’ve been too intimidated to dive into this incredible writer’s formidable backlog, why not ease in with some no-commitment short stories? You won’t even have to buy a book. Below, you can read the openings of 25 Munro stories to see which one strikes your fancy—you could browse chronologically, or if you need a more pointed nudge, you could always start with my own personal favorite, “Wenlock Edge.” Once you’ve decided, click through—all of the below stories are available to read for free thanks to the magic of the internet though depending on your subscriptions, you may have to get creative. Enjoy. “Boys and Girls,” 1968 My father was a fox farmer. That is, he raised silver foxes, in pens; and in the fall and early winter, when their fur was prime, he killed them and skinned them and sold their pelts to the Hudson’s Bay Company or the Montreal Fur Traders. These companies supplied us with heroic calendars to hang, one on each side of the kitchen door. Against a background of cold blue sky and black pine forests and treacherous northern rivers, plumed adventures planted the flags of England and or of France; magnificent savages bent their backs to the portage. “Queenie,” London Review of Books, 1998 Queenie said, “Maybe you better stop calling me that,” and I said, “What?” “Stan doesn’t like it,” she said. “Queenie.” “The Bear Came Over the Mountain,” The New Yorker, 1999 Fiona lived in her parents’ house, in the town where she and Grant went to university. It was a big, bay-windowed house that seemed to Grant both luxurious and disorderly, with rugs crooked on the floors and cup rings bitten into the table varnish. Her mother was Icelandic—a powerful woman with a froth of white hair and indignant far-left politics. The father was an important cardiologist, revered around the hospital but happily subservient at home, where he would listen to his wife’s strange tirades with an absentminded smile. Fiona had her own little car and a pile of cashmere sweaters, but she wasn’t in a sorority, and her mother’s political activity was probably the reason. Not that she cared. Sororities were a joke to her, and so was politics—though she liked to play “The Four Insurgent Generals” on the phonograph, and sometimes also the “Internationale,” very loud, if there was a guest she thought she could make nervous. “What Is Remembered,” The New Yorker, 2001 In a hotel room in Vancouver, Meriel as a young woman is putting on her short white summer gloves. She wears a beige linen dress and a flimsy white scarf over her hair. Dark hair, at that time. She smiles, because she has remembered something that Queen Sirikit of Thailand said, or was quoted as saying, in a magazine. A quote within a quote—something Queen Sirikit said that Balmain had said. “Balmain taught me everything. He said, Always wear white gloves. It’s best.’” “Runaway,” The New Yorker, 2003 Carla heard the car coming before it topped the little rise in the road that around here they called a hill. It’s her, she thought. Mrs. Jamieson—Sylvia—home from her holiday in Greece. From the barn door—but far enough inside that she could not easily be seen—she watched the road where Mrs. Jamieson would have to drive by, her place being half a mile farther along than Clark and Carla’s. If it was somebody coming to see them, the car would be slowing down by now. But still Carla hoped. Let it not be her. “Passion,” The New Yorker, 2004 When Grace goes looking for the Traverses’ summer house, in the Ottawa Valley, it has been many years since she was in that part of the country. And, of course, things have changed. Highway 7 now avoids towns that it used to go right through, and it goes straight in places where, as she remembers, there used to be curves. This part of the Canadian Shield has many small lakes, which most maps have no room to identify. Even when she locates Sabot Lake, or thinks she has, there seem to be too many roads leading into it from the county road, and then, when she chooses one, too many paved roads crossing it, all with names that she does not recall. In fact, there were no street names when she was here, more than forty years ago. There was no pavement, either—just one dirt road running toward the lake, then another running rather haphazardly along the lake’s edge. “Chance,” The New Yorker, 2004 Halfway through June of 1965, the term at Torrance House School for Girls is over. Juliet has not been offered a permanent job—the teacher she was replacing has recovered from a bout of depression—and she could now be on her way home. Instead, she is taking what she has described as a little detour. A little detour to see a friend who lives up the coast. “Soon,” The New Yorker, 2004 Two profiles face each other. One, a pure-white heifer, with a particularly mild and tender expression, the other a green-faced man who is neither young nor old. He seems to be a minor official, maybe a postman—he wears that sort of cap. His lips are pale; the white of his visible eye is shining. A hand that is probably his offers up, from the lower margin of the painting, a little tree or an exuberant branch, fruited with jewels. “Silence,” The New Yorker, 2004 On the short ferry ride from Buckley Bay to Denman Island, Juliet gets out of her car and stands at the front of the boat, in the late-spring breeze. A woman standing there recognizes her, and they begin to talk. It is not unusual for people to take a second look at Juliet and wonder where they’ve seen her before. She appears regularly on the provincial television channel, interviewing people who lead notable lives, and deftly directing panel discussions, for a program called “Issues of the Day.” Her hair is cut short now, as short as possible, and has taken on a very dark auburn color, which matches the frames of her glasses. She often wears black pants, as she does today, and an ivory silk shirt, and sometimes a black jacket. She is what her mother would have called a striking woman. “The View from Castle Rock,” The New Yorker, 2005 On a visit to Edinburgh with his father when he is nine or ten years old, Andrew finds himself climbing the damp, uneven stone steps of the Castle. His father is in front of him, some other men behind—it’s a wonder how many friends his father has found, standing in cubbyholes where there are bottles set on planks, in the High Street—until at last they crawl out on a shelf of rock, from which the land falls steeply away. It has just stopped raining, the sun is shining on a silvery stretch of water far ahead of them, and beyond that is a pale green and grayish-blue land, a land as light as mist, sucked into the sky. “Wenlock Edge,” The New Yorker, 2005 My mother had a bachelor cousin a good deal younger than her, who used to visit us on the farm every summer. He brought along his mother, Aunt Nell Botts. His own name was Ernie Botts. He was a tall, florid man with a good-natured expression, a big square face, and fair curly hair springing straight up from his forehead. His hands, his fingernails were as clean as soap itself; his hips were a little plump. My name for him—when he was not around—was Earnest Bottom. I had a mean tongue. But I meant no harm. Or hardly any harm. “Dimension,” The New Yorker, 2006 Doree had to take three buses—one to Kincardine, where she waited for one to London, where she waited again, for the city bus out to the facility. She started the trip on a Sunday at nine in the morning. Because of the waiting times between buses, it took her until about two in the afternoon to travel the hundred-odd miles. All that sitting, either on buses or in the depots, was not a thing she should have minded. Her daily work was not of the sitting-down kind. “Free Radicals,” The New Yorker, 2008 At first, people kept phoning, to make sure that Nita was not too depressed, not too lonely, not eating too little or drinking too much. She had been such a diligent wine drinker that many forgot that she was now forbidden to drink at all. She held them off, without sounding nobly grief-stricken or unnaturally cheerful or absent-minded or confused. She said that she didn’t need groceries; she was working through what she had on hand. She had enough of her prescription pills and enough stamps for her thank-you notes. “Deep-Holes,” The New Yorker, 2008 Sally packed devilled eggs—something she usually hated to take on a picnic, because they were so messy. Ham sandwiches, crab salad, lemon tarts—also a packing problem. Kool-Aid for the boys, a half bottle of Mumm’s for herself and Alex. She would have just a sip, because she was still nursing. She had bought plastic champagne glasses for the occasion, but when Alex spotted her handling them he got the real ones—a wedding present—out of the china cabinet. She protested, but he insisted, and took charge of them himself, the wrapping and packing. “Face,” The New Yorker, 2008 I am convinced that my father looked at me, really saw me, only once. After that, he knew what was there. In those days, they didn’t let fathers into the glare of the theatre where babies were born, or into the room where the women about to give birth were stifling their cries or suffering aloud. Fathers laid eyes on the mothers only once they were cleaned up and conscious and tucked under pastel blankets in the ward or in semi-private or private rooms. My mother had a private room, as became her status in town, and it was just as well, actually, seeing the way things turned out. “Some Women,” The New Yorker, 2008 I am amazed sometimes to think how old I am. I can remember when the streets of the town I lived in were sprinkled with water to lay the dust in summer, and when girls wore waist cinchers and crinolines that could stand up by themselves, and when there was nothing much to be done about things like polio and leukemia. Some people who got polio got better, crippled or not, but people with leukemia went to bed, and, after some weeks’ or months’ decline in a tragic atmosphere, they died. “Fiction,” 2009 The best thing in winter was driving home, after her day teaching music in the Rough River schools. It would already be dark, and on the upper streets of the town snow might be falling, while rain lashed the car on the coastal highway. Joyce drove beyond the limits of the town into the forest, and though it was a real forest with great Douglas firs and cedar trees, there were people living in it every quarter mile or so. There were some people who had market gardens, a few who had some sheep or riding horses, and there were enterprises like Jon’s—he restored and made furniture. Also the services advertised beside the road, and more particular to this part of the world—tarot readings, herbal massage, conflict resolution. Some people lived in trailers; others had built their own houses, incorporating thatched roofs and log ends, and still others, like Jon and Joyce, were renovating old farmhouses. “Corrie,” The New Yorker, 2010 “It isn’t a good thing to have the money concentrated all in the one family, the way you do in a place like this,” Mr. Carlton said. “I mean, for a girl like my daughter Corrie here. For example, I mean, like her. It isn’t good. Nobody on the same level.” Corrie was right across the table, looking their guest in the eye. She seemed to think this was funny. “Axis,” The New Yorker, 2011 Fifty years ago, Grace and Avie were waiting at the university gates, in the freezing cold. A bus would come eventually, and take them north, through the dark, thinly populated countryside, to their homes. Forty miles to go for Avie, maybe twice that for Grace. They were carrying large books with solemn titles “The Medieval World,” “Montcalm and Wolfe,” “The Jesuit Relations.” “Gravel,” The New Yorker, 2011 At that time we were living beside a gravel pit. Not a large one, hollowed out by monster machinery, just a minor pit that a farmer must have made some money from years before. In fact, the pit was shallow enough to lead you to think that there might have been some other intention for it—foundations for a house, maybe, that never made it any further. “Leaving Maverley,” The New Yorker, 2011 In the old days when there was a movie theatre in every town there was one in this town, too, in Maverley, and it was called the Capital, as such theatres often were. Morgan Holly was the owner and the projectionist. He didn’t like dealing with the public—he preferred to sit in his upstairs cubbyhole managing the story on the screen—so naturally he was annoyed when the girl who took the tickets told him that she was going to have to quit, because she was having a baby. He might have expected this—she had been married for half a year, and in those days you were supposed to get out of the public eye before you began to show—but he so disliked change and the idea of people having private lives that he was taken by surprise. “Train,” Harper’s, 2012 This is a slow train anyway, and it has slowed some more for the curve. Jackson is the only passenger left, and the next stop is about twenty miles ahead. Then the stop at Ripley, then Kincardine and the lake. He is in luck and it’s not to be wasted. Already he has taken his ticket stub out of its overhead notch. “Amundsen,” The New Yorker, 2012 On the bench outside the station, I sat and waited. The station had been open when the train arrived, but now it was locked. Another woman sat at the end of the bench, holding between her knees a string bag full of parcels wrapped in oiled paper. Meat—raw meat. I could smell it. “Haven,” The New Yorker, 2012 All this happened in the seventies, though in that town and other small towns like it the seventies were not as we picture them now, or as I had known them even in Vancouver. The boys’ hair was longer than it had been, but not straggling down their backs, and there didn’t seem to be an unusual amount of liberation or defiance in the air. “Voices,” The Telegraph, 2013 When my mother was growing up, she and her whole family would go to dances. These would be held in the schoolhouse, or sometimes in a farmhouse with a big enough front room. Young and old would be in attendance. Someone would play the piano — the household piano or the one in the school — and someone would have brought a violin. The square dancing had complicated patterns or steps, which a person known for a special facility would call out at the top of his voice it was always a man and in a strange desperate sort of haste which was of no use at all unless you knew the dance already. As everybody did, having learned them all by the time they were ten or twelve years old.
Không thích ồn ào và thể hiện nơi đám đông, Nobel Văn học 2013 trốn trong những quan sát, suy tư, trải nghiệm riêng về cuộc sống xung quanh để viết nên tác phẩm. Ấn tượng đầu tiên mà Alice Munro, nữ nhà văn 82 tuổi giành giải Nobel 2013, để lại cho người khác là nét đôn hậu, gần gũi với mái đầu bạc phơ, ánh mắt và nụ cười rạng rỡ ấm áp. Sinh ra và lớn lên tại thị trấn Wingham, Ontario, Canada, miền quê nhỏ bé này đã lặng lẽ đi vào đời sống tinh thần của Alice Munro, sau này là bối cảnh xuất hiện trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn của bà dưới những cái tên khác nhau như Jubilee, Hanratty... Alice Munro là con cả trong gia đình có ba người con. Mẹ bà là một giáo viên và cha là nông dân. Từ năm 10 tuổi, Munro đã đắm mình trong những cuốn sách và nuôi dưỡng giấc mộng văn chương. Sau khi rời trường phổ thông, bà giành được học bổng nghiên cứu báo chí và tiếng Anh tại Đại học Western Ontario, nơi đây, bà bán máu, làm bồi bàn, cuốn thuốc lá, thủ thư cùng nhiều công việc khác để kiếm tiền ăn học. Năm 1951, Munro bất ngờ nghỉ học để kết hôn với người bạn cùng trường James Munro. Vài năm sau đó, Alice cùng chồng chuyển tới sống ở Victoria, British Columbia, dồn vốn mở một hiệu sách có tên Munro's Books. Thường xuyên tiếp xúc sách báo cộng với niềm đam mê có sẵn, Munro vừa bán sách, vừa chăm con, vừa cho ra đời những tác phẩm của riêng mình. Chung sống với nhau được ba mặt con, Munro và chồng chia tay năm 1972. Năm 1976, bà đi bước nữa với nhà nghiên cứu địa lý Gerald Fremlin. Mặc dù vậy, bà vẫn giữ họ của mình theo họ người chồng đầu tiên - Alice Ann Munro. lice Munro bắt đầu viết truyện từ những năm tháng tuổi teen. Bà xuất bản truyện ngắn đầu tiên năm 1950, khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, tác phẩm có tên "The Dimensions of a Shadow". Năm 1968, khi Munro 37 tuổi, tuyển tập truyện ngắn "Dance of the Happy Shades" ra đời, nhận được sự chú ý lớn trong giới văn chương Canada. "Dance of the Happy Shades" cũng lập tức được trao giải Governor General - giải thưởng văn học lớn của Canada - dành cho lĩnh vực văn học hư cấu. Năm 1971, bà xuất bản tuyển tập truyện ngắn "Lives of Girls and Women", được các nhà phê bình đánh giá là một tiểu thuyết có tính giáo dục lớn. Sau đó, nhiều tuyển tập khác lần lượt ra đời "Something I've Been Meaning to Tell You" 1974, "Who Do You Think You Are?" 1978 - thắng giải Governor General, "The Moons of Jupiter" 1982, "Runaway" 2004 - tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt với tiêu đề "Trốn chạy", "The View from Castle Rock" 2006, "Too Much Happiness" 2009... Tuyển tập "Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage" 2001 của Munro là chất liệu chính cho bộ phim "Away from Her" của đạo diễn Sarah Polley năm 2006. Tổng cộng, Alice Munro đã xuất bản 14 tuyển tập truyện ngắn trong quãng đời viết lách của mình, chưa kể nhiều tác phẩm lẻ khác. Tuyển tập gần đây nhất của bà là "Dear Lifer" phát hành năm 2012. Bà cũng nhận nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Man Booker Quốc tế 2009 và ba giải thưởng Governor General danh giá của Canada. Đầu năm nay, nhà văn 82 tuổi đã thông báo kế hoạch gác bút, rời bỏ công việc văn chương để tận hưởng những năm tháng cuối đời. Alice Munro là nhà văn nữ thứ 13 giành giải Nobel Văn học. Bà cũng là người Canada đầu tiên nhận giải thưởng này. Trước đó, tác giả Saul Bellow sinh ở Canada cũng được trao giải năm 1976 nhưng đã chuyển tới sống ở Mỹ từ năm 1941. Tập Truyện ngắn Alice Munro gồm có Cõi Âm Các Mặt Trăng Của Sao Mộc Chạy Trốn Cơ Hội Sớm Im Lặng Đam Mê Đảo Cortes Tai Nạn Thị Trấn Bên Đường Quá Nhiều Hạnh Phúc *** Cha tôi băng qua cánh đồng ôm xác một đứa bé trai bị chết đuối. Họ có nhiều người, trở về sau cuộc lùng kiếm, nhưng ông là người mang xác thằng bé. Những người đàn ông mình mẩy đầy bùn, mệt lả, bước đi đầu cúi xuống, như thể họ là những người có lỗi. Ngay những con chó cũng chán nản, lông nhểu nước từ con sông lạnh giá. Thế mà vài giờ trước đó khi khởi sự, chúng còn tỏ ra bồn chồn, chạy quanh sủa ăng ẳng, những người đàn ông quyết tâm, căng thẳng, và có một không khí kích động bị kìm nén lại, không diễn tả được, bao trùm toàn bộ khung cảnh. Lúc đó ai cũng biết rằng có thể họ sẽ tìm thấy một điều gì khủng khiếp. Tên của thằng bé là Steve Gauley. Tám tuổi. Tóc và quần áo nó nhuốm bùn, bê bết cỏ, cành vụn và lá chết. Nó là nỗi cự tuyệt được gởi lại từ mùa đông. Mặt nó úp vào ngực cha tôi, nhưng tôi vẫn còn thấy được một lỗ mũi, một vành tai nhét đầy bùn xanh lợn cợn. Tôi không nghĩ thế. Tôi không nghĩ rằng tôi đã thực sự trông thấy những điều ấy. Có lẽ tôi đã thấy cha tôi mang xác thằng bé, thấy những người khác đi theo ông, những con chó, nhưng tôi không thể nào được phép đến gần tới mức nhìn thấy một thứ gì như bùn trong lỗ mũi. Chắc là tôi đã được nghe ai đó kể lại và tự mình tưởng tượng ra. Tôi nhìn thấy khuôn mặt của nó không thay đổi trừ những vết bùn – khuôn mặt quen thuộc của thằng Steve, mặt nó nhọn, vẻ lém lỉnh – và thật ra không thể nào như thế được; nó phải sưng phồng lên chứ, phải biến dạng và dính bùn khắp nơi sau nhiều giờ ngâm trong nước. Việc mang về một tin như thế, một bằng chứng như thế, cho một gia đình mỏi mắt trông chờ, nhất là người mẹ, khiến cho những người đi lùng kiếm đứa bé cử động nặng nề, nhưng điều đang xảy ra ở đây còn tệ hại hơn nữa. Rõ ràng là có một nỗi xấu hổ nghe người ta nói thế rằng thật ra chẳng có một người mẹ nào cả, chẳng có một người phụ nữ nào hết – không bà nội không bà ngoại không cô không dì không chị không em – đứng chờ thằng Steve và trao cho nó nỗi đau buồn thương tiếc xứng đáng kia. Cha của Steve là một người làm công, hay uống rượu nhưng không phải là kẻ say sưa, một người đàn ông được chăng hay chớ nhưng không phải quá ham chơi, một kẻ không thân thiện mấy nhưng không làm phiền ai. Mối tình phụ tử xem ra cũng ngẫu nhiên, và vì đứa bé bị người mẹ ra đi bỏ lại, và hai cha con vẫn tiếp tục sống với nhau, xem chừng càng có vẻ tình cờ. Họ sống trong ngôi nhà với mái nhọn lợp gỗ xám ở xó núi quê mùa, trông chỉ khá hơn túp lều chút đỉnh – người cha sửa chữa mái nhà và dựng những cái giá đỡ ở bên dưới, cũng vừa đủ thôi và cũng đúng lúc cần thiết – và cuộc đời của hai cha con cũng dựa dẫm vào nhau tương tự như thế; tức là cũng tốt vừa đủ để cho cơ quan can thiệp vì quyền lợi của trẻ em không can dự vào gia đình của họ. Hai cha con không ăn chung với nhau, không ai nấu cho ai, nhưng nhà vẫn có thức ăn, đôi khi người cha cho con một ít tiền để mua thức ăn ở tiệm và người ta thấy thằng Steve tới đó mua những thứ xem ra cũng cần thiết như bột làm bánh hay bữa ăn tối kiểu bột mì có thịt. Tôi biết rõ Steve Gauley. Tôi cũng thích nó, nhưng phần nhiều là không thích. Steve lớn hơn tôi hai tuổi. Nó đến chơi ở chỗ chúng tôi vào các ngày thứ bảy, ra vẻ coi khinh những trò của tôi nhưng lại không thể bỏ mà đi được. Tôi cũng không thể ngồi lên ghế xích đu mà không có nó khởi động và khi tôi có muốn bỏ cuộc nó liền chạy tới đẩy một cái khiến tôi hoảng lên co rúm người lại. Nó chọc ghẹo những con chó. Nó làm cho tôi phiền bực – có tính toán và rất quỷ quái, sau này tôi nghĩ lại – bằng cách khiến tôi làm những việc mình không tự nghĩ ra đào khoai lên để xem chúng lớn cỡ nào khi còn nhỏ xíu, chất củi lên thành đống để chúng tôi nhảy từ trên đó xuống. Ở trường chúng tôi chẳng bao giờ nói chuyện với nhau. Steve cô độc nhưng không đau khổ. Nhưng vào những buổi sáng thứ bảy, khi chợt nhìn thấy cái dáng của nó điềm tĩnh, gầy gò, xuyên qua hàng rào dương liễu, tôi biết là tôi sắp tham dự một điều gì đó và Steve sẽ quyết định điều ấy. Đôi khi chúng cũng êm xuôi. Chúng tôi giả đò làm cao bồi huấn luyện những con ngựa hoang. Chúng tôi chơi đùa trên cánh đồng cỏ gần bờ sông, không xa lắm chỗ Steve bị chết đuối. Chúng tôi giả đò làm ngựa và kỵ sĩ, la hét, mang dây nhợ, vung vẩy những ngọn roi làm bằng cây lá, ở trên bờ con sông không tên chảy xuôi xuống vùng Saugeen ở phía Nam tỉnh Ontario. ,,, Mời các bạn đón đọc Tập Truyện ngắn Alice Munro của tác giả Alice Munro.
Giải tríSáchLàng văn Thứ tư, 16/10/2013, 0500 GMT+7 Alice Munro vừa giành giải Nobel Văn học 2013. Ở Việt Nam độc giả đã được thưởng thức tập truyện ngắn "Trốn chạy" của bà. Không đợi đến khi nhận giải Nobel 2013, cái tên Alice Munro đã được đông đảo bạn đọc thế giới biết tới trước đó với rất nhiều giải thưởng văn học danh giá. Ở Việt Nam, tập truyện ngắn Trốn chạy của bà đã được Nhà xuất bản Văn học và Nhã Nam phát hành năm 2012. Ngay từ lúc đó nhiều độc giả đã tìm đọc và dành nhiều lời khen ngợi cho tác phẩm của chủ nhân giải Nobel 2013. Trốn chạy - tập truyện ngắn của Alice Munro - đã được xuất bản tại Việt Nam tháng 3/2012. Trốn chạy tên tiếng Anh là Runaway, gồm tám truyện ngắn, lấy tên truyện đầu tiên trong sách làm tiêu đề. Truyện ngắn Trốn chạy kể về hai cuộc chạy trốn, một của người phụ nữ chạy trốn khỏi người chồng thô lỗ, một của con thú cưng chạy trốn khỏi chính người phụ nữ đó. Các truyện ngắn khác trong tập truyện đều mang những tên gọi ngắn gọn Tình cờ, Sắp rồi, Nín lặng, Đam mê, Mắc lỡm, Thần lực. Tuy viết về những nhân vật khác nhau, kể câu chuyện khác nhau, song các truyện ngắn đều thấp thoáng một cuộc chạy trốn. Đó là một cô gái trốn chạy để đến với người đàn ông cô yêu, một người mẹ phù phiếm bỏ con để chạy theo những cơn mê dài, một người con bỏ mẹ để tìm những điều cô cho rằng đó là lý tưởng... Các truyện ngắn trong Trốn chạy không có những tình tiết gay cấn, kịch tính cao trào, cũng không đau thương, ủy mị mà vẫn có sức hấp dẫn riêng với người đọc. Những khoảnh khắc mà các nhân vật chợt nhận ra, giác ngộ thấy, hay là một chi tiết hé lộ sự thực chính là những điều bất ngờ mà độc giả mong chờ và luôn tìm thấy trong tập truyện này. Bằng văn phong đẹp đẽ, giọng kể của tác giả cứ bình thản mà gây cảm giác nhói đau với từng câu chuyện. Chẳng thế mà Trốn chạy được đánh giá là tác phẩm tổng hợp của một trong những nhà văn khai thác đào sâu tâm hồn con người sắc sảo nhất. Trốn chạy được phát hành tại Việt Nam cuối tháng 3/2012 và được nhiều độc giả yêu thích. Độc giả Nguyễn Thị Vy Hà Nội nhận xét "Khi cuộc sống đầy rẫy những khổ đau, tủi hờn, khi còn người phải chịu đựng những nỗi buồn khó lòng giải tỏa, phải đối mặt với những sợ hãi, họ trốn chạy... Đó là những gì mà nhân vật trong cuốn sách này đã làm. Alice Munro kể câu chuyện của họ bằng sự đồng cảm sâu sắc, bằng cái nhìn đầy thiện cảm và thấu hiểu, để rồi người đọc như bị hòa làm một vào những cuộc đời, số phận trong sách. Tập truyện ngắn này có thể không lôi cuốn ngay từ đầu, nhưng một khi đã đọc, đã chìm đắm vào nó, bạn sẽ thấy mình như trở thành một con người khác, trưởng thành hơn". Alice Munro - chủ nhân giải Nobel Văn học 2013 và nhiều giải thưởng văn chương danh giá khác. Độc giả Nguyễn Thành Trung Hà Nội nhận xét, cuốn sách không mang lại cảm giác thư thái, mà luôn choán lấy người đọc bằng những câu hỏi về giá trị đích thực của cuộc sống. "Mình thích nỗi buồn mà Alice Munro đem đến, sâu sắc, thấm thía, giằng xé, nhưng dịu ngọt và ấm áp" - độc giả Thành Trung bày tỏ. Cũng giống nhận định của Thành Trung, độc giả Phạm Hoàng Lan cho rằng Trốn chạy là một tác phẩm kể các chuyện buồn "Khi tôi đọc những câu chuyện của Alice Munro và thảo luận với bạn bè, chúng tôi bắt đầu nhận ra rằng càng nói về những câu chuyện ám ảnh đó, chúng tôi làm càng cảm thấy cuốn sách buồn đến thế nào... Các nhân vật trong truyện ra sức trốn chạy cái thực tại mà họ không muốn sống cùng. Có kẻ thành công, có người thất bại. Nhưng trên hết nó thể hiện bức tranh cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng". Độc giả Lưu Hoàng Bắc Khánh Hòa bày tỏ sự ngưỡng mộ với Alice Munro bằng cách khi đọc từng dòng, từng câu của Trốn chạy đều dừng lại một chút để suy ngẫm. Độc giả này nhận xét "Tôi thực sự phải ngưỡng mộ Alice Munro. Trốn chạy được bà xây dựng kỹ lưỡng, qua từng câu chữ trau chuốt, qua từng tình tiết sinh động khác nhau, qua thông điệp ý nghĩa. Tôi thích những câu văn của cuốn sách, tôi luôn thấy đâu đó sự đồng cảm, cái nhìn đầy chân thật của tác giả". "Trốn chạy là một tập truyện ngắn gần như không thể bỏ qua đối với những ai đam mê văn chương, đặc biệt là mảng truyện ngắn" - độc giả Đoàn Khương Duy TP HCM nhận định. Độc giả này cũng chỉ ra "không thể dựa vào cốt truyện hay những câu nói sâu sắc mà đánh giá các truyện ngắn của Alice Munro, vì chính tâm tư của các nhân vật mới là điểm then chốt tạo ra mạch truyện cuốn hút người đọc vào". Alice Munro được đánh giá là bậc thầy của truyện ngắn đương đại. Ngoài Trốn chạy, bà còn có 13 tập truyện ngắn, hai tuyển tập cùng một tiểu thuyết được xuất bản. Hiền Đỗ
truyện ngắn alice munro